19/02/2024
Về thăm lễ hội Bà Chiêm Sơn
Theo quan niệm vũ trụ luận của Phương Đông, mùa xuân - mùa giao hòa của đất trời, là thời điểm thiêng để diễn ra nghi lễ tín ngưỡng cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, no ấm và hạnh phúc. Về Duy Xuyên vào dịp xuân, bạn sẽ được tham gia lễ hội Lễ Bà Chiêm Sơn với nghi thức tế lễ còn giữ được nét nguyên bản xưa.
Làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh thuộc vùng trung du của huyện Duy Xuyên là một trong những làng xã hình thành từ rất sớm vào thế kỷ XV ở Quảng Nam khi những cư dân Thanh - Nghệ di dân vào khai phá mở mang bờ cõi. Vào thời kỳ đầu các chúa Nguyễn (thế kỷ XVII), làng Chiêm Sơn là nơi trù phú, nổi tiếng về nông nghiệp, dệt lụa tơ tằm. Qua nhiều thế hệ phát triển, đến những năm cuối thế kỷ XIX, Chiêm Sơn, làng quê nông nghiệp phồn thịnh điển hình nhất của Phủ Duy Xuyên.
Duy Xuyên là thánh địa vương quốc Chăm, từ thuở đầu tiên, khi người dân Việt lưu xứ đến khai canh định cư vùng đất này, với tâm thức của cư dân nông nghiệp, họ đã gửi gắm niềm tin vào tín ngưỡng dân gian, mong trời đất thần linh phù trợ được mùa, no ấm. Vì vậy, ngay từ buổi đầu lập làng, người dân Chiêm Sơn đã dựng miếu/dinh thờ nữ thần bổn mệnh. Ngày nay, nếu có dịp đi ngang qua xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên thì sẽ thấy một ngôi miếu tọa lạc tại làng Chiêm Sơn, tổng Mậu Hoà là nơi thờ vị phúc thần với khá nhiều truyền thuyết. Dinh Bà hiện còn một pho tượng nữ thần cao khoảng 1 mét, ngồi thế “kiết già” tự nhiên, làm bằng đá sa thạch, tai dài, đầu đội mũ, chân xếp bằng, mặc áo choàng vai, chung quanh vương miện có 7 đầu rắn thần. Tượng nguyên gốc là một phù điêu nữ thần Chăm, vào khoảng thế kỷ XVII người Việt khi đến vùng đất này đã tạc lại với những chi tiết tín ngưỡng Việt mà đến nay còn rất rõ nét. Tuy nhiên, ngày trước tại Dinh Bà còn có một tượng Voi, một tượng Cù của người Chăm đều làm bằng đá, nơi linh thiêng này từ xưa kiêng kỵ không ai được trồng trọt và giết mổ gia súc, gia cầm.
Truyền thuyết kể rằng, ngày xưa, giữa cồn cát làng An Tây xuất hiện một tảng đá giống người đàn bà, gọi là Bà Đá. Người dân trong các làng lân cận cảm nhận sự linh thiêng của tảng đá nên dự định đến chuyển về để thờ cúng nhưng không sao làm được. Nghe truyền về câu chuyện kỳ bí này, thừa một đêm trăng sáng, tám người chăn trâu ở làng Chiêm Sơn có ý định thử vận may mang Bà Đá về làng mình. Họ đã làm được và chuyển về làng định đem thờ trong ngôi chùa. Nhưng vừa đi được nửa đường qua ngọn đồi Chiêm Sơn bỗng nhiên dây khiêng bị đứt và Bà Đá rơi xuống bám chặt vào đất, người dân dùng mọi cách cũng không thể nâng lên được. Lúc này trong làng xuất hiện một cậu bé mặt đỏ tươi, miệng há hốc như đang nhập đồng, nói rằng Bà Đá là vị thần thường gọi Bô Bô Thái Dương Phu Nhân, bà quyết định ở ngay vị trí đó, không được chuyển đi đâu hết vì không muốn thờ chung với các vị phật. Để thỏa nguyện ý Bà, tám người chăn trâu làm một ngôi miếu nhỏ lợp tranh tre để thờ, mặt ngôi miếu nhìn ra nơi tìm thấy tảng đá.
Cũng có truyền thuyết thứ hai cho rằng, trong một khu rừng nhỏ làng Mậu Hoà, dân làng phát hiện một pho tượng đá. Với đức tin đó là vị thần từ trên trời giáng xuống, nhiều làng lân cận đến tìm cách chuyển về nhưng không được vì pho tượng nặng lạ kỳ. Vào một đêm trăng sáng, tám người chăn trâu làng Chiêm Sơn đem theo dây thừng, tre đến khiêng thì được. Theo ý các hương lão Chiêm Sơn thì sẽ thờ Bà chung với vị thần Cao Các trong làng. Khi họ khiêng về đến nơi hiện nay là Dinh Bà, thì bỗng nhiên dây bị đứt, họ cố khiêng về làng nhưng pho tượng có sức ỳ khủng khiếp, rơi xuống đất đè lên người khiêng, ý muốn nói chỉ thờ một mình Bà mà thôi.
Ngoài, ra một tài liệu cổ ở Duy Xuyên ghi chép là “Theo truyền khẩu của các ông hào cựu thì Bà Thái Dương Phu Nhơn, hồi trước cốt bà nầy tự nhiên nổi lên trên mặt nước bến Tây An, nơi rừng cấm Mậu Hòa. Các làng lân cận, khi ấy thấy thế, đến xin rước bà về thờ, nhưng bao nhiêu dân đến gánh không nổi. Khi ấy, làng Chiêm Sơn cũng đến xin rước bà về để thờ, lại được”.
Cộng đồng dân làng Chiêm Sơn có đức tin Bà Đá là vị phúc thần phù trợ và tạo phúc cho làng, từ xưa đến nay đã nhiều lần làng Chiêm Sơn bị hạn hán nặng nề, sâu bọ phá hoại mùa màng, người dân đến cầu khấn tại Dinh Bà thì khỏi. Có lần cả tỉnh Quảng Nam bị hạn hán khủng khiếp, dân làng Chiêm Sơn đến khấn cầu Bà thì tức khắc mưa rơi xuống ngay giữa buổi đang làm lễ tế, lúc hương đèn còn đang cháy! Sự linh nghiệm của Bà Chiêm Sơn còn được tô thêm màu huyền thoại và lưu truyền trong dân gian là khi vua Minh Mệnh đi kinh lý Quảng Nam, có đến viếng lăng mộ Hiếu Chiêu Hoàng Hậu và Hiếu Văn Hoàng Hậu, đoàn xa giá phải đi theo con đường lộ trước dinh, thật bất ngờ khi đi ngang qua, ngựa nhà vua đang cưỡi bỗng lồng lên rồi vùng chạy, may có quan quân hộ giá nên nhà vua không bị ngã. Vua lệnh cho dân làng phải quay hướng Dinh Bà ra phía sau để tránh con đường, kể từ đó ngôi miếu được xây dựng lại và quay hướng ra cánh đồng, nhìn về phía núi cho đến ngày nay.
Vào ngày 12 tháng Giêng hằng năm, dân làng Chiêm Sơn và vùng lân cận tổ chức Lễ hội Bà Chiêm Sơn mà người dân địa phương thường gọi tên dân gian là Lễ Bà. Lễ vật cúng tế do dân làng sắm sửa gồm cơm, thịt heo và trái cây, ngoài các lễ vật ấy bắt buộc phải có một con cua đồng, một nhánh tỏi, một cây cải và một con chồn, người dân nào có lòng thành thì dâng cúng một đĩa xôi và một con gà luộc. Sau lễ toàn bộ vật cúng tế đều chia cho dân trong làng và bắt buộc phải sử dụng hết trong ngày. Những người dâng lễ là các hương lão làng Chiêm Sơn, từ 20 đến 30 người, được chọn từ các vị cao niên và có uy tín trong làng, vị chủ bái đội khăn đen, áo dài thụng tay rộng màu thiên thanh, quần dài lụa trắng và đi chân trần. Ba ngày trước khi tế Lễ Bà, vị chánh bái phải kiêng cử và chay tịnh như người tu hành, trước khi tế vị chánh bái dùng một loại nước được nấu từ lá cây và hoa thơm để tắm rửa pho tượng gọi là Lễ Mộc dục. Khi mặt trời đã tắt, vào tối ngày 11, dân làng Chiêm Sơn làm lễ cúng tiên thường gọi là Lễ Túc yết để hương chức trong làng dâng lễ vật ra mắt các vị thần, mời Bà về dự (Túc: Đêm; Yết: ra mắt). Lễ vật cúng Lễ Túc yết gồm một mâm cơm, hoa quả và bánh tráng là vật cúng không thể thiếu trong các lễ cúng của người Quảng. Trong Lễ Túc yết chỉ đọc chúc cáo mà không đọc chúc văn với nghi thức 4 lạy nguyên, 4 lạy tạ và 2 lạy chúc cáo. Lễ Đại tế được tiến hành vào lúc nửa đêm, thời điểm chuyển giao giữa ngày 11 sang ngày 12 lúc giờ thiêng của thần. Sáng ngày 12 là Lễ Rước sắc từ Bến Giá bên bờ sông Thu Bồn về Dinh Bà Chiêm Sơn. Đi đầu đám rước là đội múa lân sư, đến đội chiêng, trống cái, theo sau là bát âm, kiệu nông sản và kiệu sắc do 16 trai tráng trong làng khiêng, rồi đến đoàn lính phù giá và toàn thể nhân dân trong làng cùng khách thập phương. Về đến Dinh Bà, đoàn rước dừng lại, kiệu sắc tiến vào dinh. Theo lệ cũ, sau khi rước sắc, dân làng làm lễ tuyên sắc để tưởng nhớ công đức của Bà trước khi tế thần. Đây là nghi thức Đại tế cổ truyền ở làng Chiêm Sơn, diễn ra với 20 lần xướng cùng với tiếng chiêng trống hòa với nhạc lễ trang nghiêm. Ngày xưa, lúc Đại tế, những người không tinh khiết, người say rượu, bị bệnh “nghễnh ngãng” không được vào dinh thờ; còn thường ngày, ai đi ngang qua dinh thờ phải xuống xe, xuống ngựa, ngã nón và nhất là không được nhìn thẳng vào chánh điện, nếu phạm thì lệ làng phạt một mâm trầu cau, rượu, vật tam sinh (trâu, bò, heo). Xưa kia tại Dinh Bà có lệ hát 3 năm 1 lần, nhưng những năm gần đây, vào ngày Lễ Bà đã thu hút rất đông khách thập phương, nên có thêm những hoạt động văn hóa dân gian của cộng đồng với Lễ xuống đồng, Lễ mục đồng và phần hội hè phong phú như chợ quê với các món ăn dân dã, đá gà, võ thuật, cờ tướng, múa lân sư, hô hát bài chòi, thi nghé khỏe đẹp… vào ngày 11 tháng Giêng.
Lễ Bà Chiêm Sơn không những giữ được bản sắc truyền thống, tính cố kết của cộng đồng làng xã mà còn lưu giữ tính thiêng là phần hồn quan trọng của lễ. Bởi sự cổ kính linh thiêng của ngôi miếu và uy lực siêu nhiên mà Bà Đá đem lại qua hai lần ban sắc của triều đình, Bà được sắc phong Thái Dương Phu Nhân tôn thần, tiếp đến là Trung đẳng thần. Tuy nhiên vì chiến tranh, ngôi miếu và cả đình làng Chiêm Sơn ở xóm La Ngà xưa kia bề thế nhất vùng đã bị tàn phá, sau này dân làng mới quyên góp để xây dựng lại….