03/09/2023
Có thể bạn đã biết
Theo thống kê "Tiếp cận các nguồn gen và chia sẻ lợi ích" (của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới - IUCN), thì tại Việt Nam hiện có gần 12.000 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc hơn 2.256 chi, 305 họ (chiếm 4% tổng số loài, 15% tổng số chi, 57% tổng số họ thực vật trên thế giới); 69 loài thực vật hạt trần; 12.000 loài thực vật hạt kín; 2.200 loài nấm; 2.176 loài tảo; 481 loài rêu; 368 loài vi khuẩn lam; 691 loài dương xỉ và 100 loài khác. Trong đó có 50% số loài thực vật bậc cao là các loài có tính chất bản địa, các loài di cư từ Hymalia-Vân Nam-Quý Châu xuống chiếm 10%, các loài di cư từ Ấn Độ-Myanma sang chiếm 14%, các loài từ Indonesia-Malaysia di cư lên chiếm 15%, còn lại là các loài có nguồn gốc hàn đới và nhiệt đới khác.
- Khu hệ thực vật bản địa Bắc Việt Nam – Nam Trung Hoa bao gồm họ Thiên thảo (Rubiaceae), Thầu Dầu (Euphorbiaceae) , họ Re (Lauraceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Dâu Tằm (Moraceae), họ Cam (Rutaceae), họ Lan (Orchidaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Thị (Ebenaceae), họ Bồ hòn (Sapindaceae), họ Xoan (Meliaceae), họ Xoài (Anacardiaceae),... Nhóm này phong phú hơn cả. Tuy nhiên vì khác biệt về địa hình, khí hậu, thủy văn và thổ nhưỡng nên hệ thực vật bản địa Việt Nam từ Bắc xuống Nam rất đa dạng với nhiều thảm thực vật khác nhau.
- Từ phía Tây Bắc xuống : Là luồng thực vật á nhiệt đới và ôn đới của khu hệ thực vật Himalaya - Vân Nam - Quý Châu với các họ đặc trưng như Họ Re (Lauraceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Kim giao (Podocarpaceae), họ Gấm (Gnetaceae), họ Chè (Theraceae), họ Tích (Aceraceae), họ Đỗ quyên (Ericaceae),... Hầu hết loài cây trong các họ này là cây lá rộng thường xanh có nguồn gốc của hệ thực vật á nhiệt đới và ôn đới.
- Từ phía Nam lên: Là luồng thực vật có quan hệ gần gũi với khu hệ thực vật Malaysia - Indonesia với đặc trưng cây họ Dầu (Dipterocarpaceae). Những loài cây trong họ Dầu bao gồm cả những loài cây thường xanh và một số loài cây rụng lá để thích nghi với những vùng khô hạn, hình thành nên rừng thưa cây họ Dầu, điển hình là rừng khộp ở Đắc Lắc, Gia Lai, …
- Từ phía Tây và Tây Nam sang: Là luồng thực vật thân thuộc với khu hệ thực vật An Độ - Myanmar với các họ đặc trưng: Họ Tử vi (Lythraceae), họ Bàng (Combretaceae), họ Tung (Datiscaceae), họ Gòn (Bombacaceae), họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae),... Những họ này có hầu hết các loài cây rụng lá trong mùa khô, hình thành các kiểu rừng kín nửa rụng lá và rựng lá ở việt Nam.
- Một số loài được di thực bởi con người như: cao su thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), cà phê thuộc họ Thiên thảo (Rubiaceae) hoặc một số loài được trồng để cho hoa, làm cảnh. Một số trường hợp đến từ rất xa như Dưa hấu họ Bầu bí có nguồn gốc từ Tây Phi.
Trong số đó, các loài dùng làm thuốc theo y văn không ngừng tăng lên theo thời gian. Thiền Sư Tuệ Tĩnh với bộ “Nam Dược Thần Hiệu" viết về 499 vị thuốc Nam, trong đó có 241 vị thuốc có nguồn gốc từ thực vật. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác với bộ “Lĩnh Nam Bản Thảo” gồm 2 quyển, quyển thượng chép 496 kế thừa của Tuệ Tĩnh, quyển hạ ghi 305 vị bổ sung về công dụng hoặc mới phát hiện thêm.
Thời kỳ Pháp thuộc, các nhà thực vật học Phương Tây đã thống kê trên toàn Đông Dương có 1350 cây thuốc thuộc 160 họ thực vật khác nhau. Mãi đến khi miền Bắc được giải phóng (1954), Việt Nam mới có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc sưu tầm, nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc.
Năm 1996, Thầy Võ Văn Chi đã công bố hệ thực vật làm thuốc ở Việt Nam có 3.200 loài (kể cả nấm). Đến năm 2005, Viện Dược Liệu ghi nhận được ở Việt Nam có hơn 3.984 loài làm thuốc thuộc 307 họ của 9 ngành và nhóm thực vật bậc cao, thực vật bậc thấp và Nấm; trong đó gần 90% là cây thuốc mọc tự nhiên, tập trung chủ yếu trong các quần xã rừng, chỉ 10% là được trồng. Mới nhất, theo sách “Từ điển cây thuốc Việt Nam” của Thầy Võ Văn Chi (2012) thì số lượng loài thực vật được dùng làm thuốc là 4.700. Tuy nhiên, cần lưu ý là đối với một số vị thuốc có nguồn gốc ôn đới và hàn đới thì nguồn cung cấp chính vẫn là nhập khẩu.
Nguồn tài liệu tham khảo:
1. Trung tâm dữ liệu Thực vật Việt Nam
2. Báo Sức khỏe và Đời sống