Trung Dũng Kiên Cường

Trung Dũng Kiên Cường Chia sẻ tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước Sống, làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật hiện hành.
(210)

Đây là trang cung cấp những thông tin chính thống được cập nhật liên tục trong ngày, giúp cho mọi người hiểu rõ về vấn đề chính trị xã hội mà mọi người quan tâm.

Trung tướng Nguyễn Trường Thắng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Tư lệnh Quân khu 7 g...
26/01/2025

Trung tướng Nguyễn Trường Thắng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Tư lệnh Quân khu 7 gửi thư chúc Tết cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 7

NHỮNG BƯỚC TIẾN VƯỢT BẬC VỀ ĐỐI NGOẠI DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNGTừ khi ra đời ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ch...
26/01/2025

NHỮNG BƯỚC TIẾN VƯỢT BẬC VỀ ĐỐI NGOẠI DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

Từ khi ra đời ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cũng trong 95 năm qua, đối ngoại và ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng trưởng thành, lớn mạnh, đổi mới và phát triển, đạt nhiều thành tựu vĩ đại, lịch sử.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đối ngoại và ngoại giao góp phần đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước (1930-1975):

Tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền tảng lý luận cho ngoại giao Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.

Ngay từ những văn kiện đầu tiên như Chính cương và sách lược vắn tắt (02/1930), Luận cương chính trị (10/1930), Đảng đã xác định tầm nhìn chiến lược khi xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, với nhiệm vụ “liên kết những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới”. Từ nhận thức này, Đảng đã đề ra sách lược tập hợp lực lượng cả trong nước và quốc tế, đặt nền móng cho tư tưởng đoàn kết quốc tế trong ngoại giao Việt Nam.

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, tư tưởng chỉ đạo này được phát triển toàn diện và có hệ thống trong Thông cáo về chính sách đối ngoại (3/10/1945). Văn bản không chỉ tuyên bố với quốc tế về mục tiêu kép của ngoại giao Việt Nam - vừa bảo đảm “sự độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn” của dân tộc, vừa đóng góp vào việc “cùng các nước Đồng minh xây dựng nền hòa bình thế giới”, mà còn xác định rõ phương châm “lấy nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương làm nền tảng” và triển khai linh hoạt “bằng mọi phương pháp êm dịu hay cương quyết”.

Trong giai đoạn 1945-1946, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng ngoại giao Việt Nam càng được hoàn thiện và phát triển sâu sắc. Người đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, giữa kiên định nguyên tắc và linh hoạt trong sách lược, đúc kết trong câu nói mang tầm triết lý sâu sắc: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Trong đó, yếu tố “bất biến” chính là sự kiên định với mục tiêu tối thượng bảo đảm độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc; còn “vạn biến” là phương pháp chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong triển khai để đạt được mục tiêu đó trong mọi hoàn cảnh. Những tư tưởng chỉ đạo này không chỉ tạo nền móng vững chắc cho việc hoạch định đường lối đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, mà còn tiếp tục là kim chỉ nam cho hoạt động ngoại giao Việt Nam trong suốt quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước sau này.

Trong hai cuộc kháng chiến, Đảng đã vận dụng sáng tạo phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao. Chiến lược này phát triển từ quan điểm “đánh - đàm” riêng biệt thành phương châm “vừa đánh vừa đàm” toàn diện, thể hiện tư duy chiến lược linh hoạt nhằm tận dụng mọi con đường để đạt mục tiêu độc lập dân tộc và hòa bình. Trong kháng chiến chống Pháp, chiến lược này đã đưa đến những thành công ngoại giao quan trọng như việc ký kết Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946), tạo điều kiện cho ta củng cố lực lượng. Đỉnh cao là Hiệp định Geneva (20/7/1954), đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và sự công nhận quốc tế về độc lập, chủ quyền của Việt Nam.

Bước sang kháng chiến chống Mỹ, vai trò của ngoại giao được nâng tầm chiến lược. Từ chỗ “ngoại giao tâm công” được phát huy để xây dựng và mở rộng mặt trận đoàn kết quốc tế ủng hộ Việt Nam và “tiến công địch về ngoại giao” với “vai trò quan trọng, tích cực, chủ động. Đến Nghị quyết của Bộ Chính trị (4/1969), lần đầu tiên ngoại giao đã được nâng tầm thành “một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược” với đỉnh cao là Hiệp định Paris (1973), tạo bước ngoặt quan trọng dẫn tới Đại thắng mùa Xuân 1975. Thành công này minh chứng cho sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thắng lợi quân sự trên chiến trường với đấu tranh ngoại giao trên bàn đàm phán, góp phần quyết định vào việc giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Đối ngoại, ngoại giao phục vụ quá trình Đổi mới, phá thế bao vây cấm vận, từng bước mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế (1975-1995):

Giai đoạn này, Đảng đã có bước chuyển quan trọng trong tư duy đối ngoại: từ “đấu tranh bảo vệ Tổ quốc” sang định hướng “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ các yếu tố quốc tế thuận lợi” để phục vụ công cuộc đổi mới và nâng cao vị thế đất nước. Sự chuyển đổi này phản ánh tầm nhìn chiến lược mới của Đảng trong bối cảnh đất nước bước vào thời kỳ hòa bình, xây dựng và phát triển. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI (1988) là bước ngoặt trong quá trình đổi mới tư duy và đường lối đối ngoại khi khẳng định “lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế”. Nghị quyết đề ra yêu cầu “chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại, cần có quan điểm mới về an ninh và phát triển, ưu tiên tập trung cho sự nghiệp giữ vững hòa bình và phát triển kinh tế. Từ chủ trương “thêm bạn, bớt thù”, Đảng đã phát triển thành hệ thống quan điểm chỉ đạo xuyên suốt về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa; “là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”.

Trên cơ sở đó, Việt Nam đã tích cực triển khai nhiều hoạt động đối ngoại quan trọng: nỗ lực xử lý vấn đề Campuchia tạo cơ sở bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc; thúc đẩy tiến trình bình thường hóa với Mỹ; đồng thời từng bước tạo dựng vị thế trên các diễn đàn đa phương, đặc biệt là trong Phong trào Không liên kết (1976) và Liên hợp quốc (1977). Tháng 7/1995 đánh dấu bước đột phá trong việc phá vỡ thế bị bao vây cấm vận với ba sự kiện mang tính cộng hưởng: thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ, ký Hiệp định khung hợp tác với Liên minh châu Âu và gia nhập ASEAN, mở ra giai đoạn hội nhập quốc tế và phát triển mới của đất nước.

Mở rộng và đưa quan hệ đi vào chiều sâu, hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện và thể hiện vai trò thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm (1996-nay):

Đảng ta đã phát triển mạnh mẽ tư duy hội nhập quốc tế từ mở rộng quan hệ song phương, đa phương đến chủ động hội nhập toàn diện, sâu rộng và là thành viên có chủ động, tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Quá trình này đánh dấu bước chuyển căn bản từ tư duy tiếp cận, tham gia sang chủ động đóng góp, từ đơn lĩnh vực sang đa lĩnh vực, từ thụ động thích nghi sang chủ động, tích cực tham gia và vươn lên đóng vai trò nòng cốt dẫn dắt. Từ chỗ xác định “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực” tại Đại hội IX (2001) [8], tư duy này được phát triển một bước tại Đại hội X (2006) thành “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”. Đó là tiền đề quan trọng để dẫn đến bước chuyển quan trọng, thành “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” tại Đại hội XI (2011), sau đó được cụ thể hóa qua Nghị quyết 22-NQ/TW (2013) của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực và nâng tầm thành “chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng, toàn diện” tại Đại hội XIII (2021). Riêng về ngoại giao đa phương, Chỉ thị 25-CT/TW (2018) của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 lần đầu tiên xác định ngoại giao đa phương là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và đặt ra yêu cầu “nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể của nước ta”.

Thành tựu nổi bật của giai đoạn này là Việt Nam đã vượt qua thế bị bao vây, cấm vận thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia, đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện với tất cả 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Ngoại giao kinh tế trở thành một trụ cột cho phát triển với việc ký kết và thực thi hiệu quả gần 20 Hiệp định thương mại tự do, đưa kim ngạch thương mại đạt mức kỷ lục gần 800 tỷ USD, đồng thời mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực mới như công nghệ bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, đổi mới sáng tạo... Trên các diễn đàn đa phương như ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, G20, BRICS, Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò tích cực và có trách nhiệm. Đặc biệt, năm 2024 ta đã lần đầu tiên khởi xướng và tổ chức thành công Diễn đàn tương lai ASEAN, thể hiện đóng góp của Việt Nam trong định hình tương lai của Cộng đồng ASEAN.

Thành tựu nổi bật của giai đoạn từ năm 1996 đến nay là Việt Nam đã vượt qua thế bị bao vây, cấm vận thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia, đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện với tất cả 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.

Năm 2025 là năm quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt, là năm kỷ niệm 80 năm thành lập nước và của ngành ngoại giao. Phát huy những thành tựu đã đạt được, đối ngoại và ngoại giao Việt Nam cần “tiếp tục phát huy vai trò tiên phong” và nhiệm vụ “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại” mà Đại hội XIII đã đặt ra. Đồng thời, cần không ngừng nỗ lực thể hiện vai trò trọng yếu thường xuyên trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng củng cố cục diện đối ngoại thuận lợi, định vị Việt Nam vào vị trí tối ưu trong các xu hướng và trào lưu phát triển, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín của đất nước, tiếp tục đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng, góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc../.

Nhân dân

TỔNG BÍ THƯ LÊ HỒNG PHONG - NGƯỜI CHIẾN SĨ CỘNG SẢN QUỐC TẾ KIÊN CƯỜNG, BẤT KHUẤT, NHÀ LÃNH ĐẠO XUẤT SẮC CỦA ĐẢNG VÀ CÁC...
26/01/2025

TỔNG BÍ THƯ LÊ HỒNG PHONG - NGƯỜI CHIẾN SĨ CỘNG SẢN QUỐC TẾ KIÊN CƯỜNG, BẤT KHUẤT, NHÀ LÃNH ĐẠO XUẤT SẮC CỦA ĐẢNG VÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Đồng chí Lê Hồng Phong, người chiến sĩ cộng sản Quốc tế kiên cường, bất khuất, nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam. Đồng chí Lê Hồng Phong là Tổng Bí thư thứ hai của Đảng ta, suốt đời chiến đấu cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

Tấm gương hy sinh oanh liệt và những hoạt động, cống hiến to lớn của đồng chí Lê Hồng Phong cho Đảng và cách mạng Việt Nam là nguồn sức mạnh cổ vũ những người cộng sản, các thế hệ hôm nay và mai sau học tập, phấn đấu, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Những hoạt động của đồng chí Lê Hồng Phong trước năm 1932

Lê Hồng Phong (lúc còn nhỏ tên là Lê Huy Doãn) sinh ra trong một gia đình nông dân, ở làng Đông Thôn, tổng Thông Lãng, phủ Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, nay là xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Cha là ông Lê Huy Quán, một người có học nhưng không may mắn trong đường khoa cử. Mẹ là bà Phạm Thị Sáu, hết lòng thương yêu chồng, con.

Năm 1924, do sớm giác ngộ cách mạng, Lê Hồng Phong và nhiều thanh niên yêu nước của xứ Nghệ đã lần lượt tìm cách xuất dương sang Xiêm (Thái Lan), rồi từ đó mới qua Trung Quốc. Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XX, Nghệ An có hàng trăm thanh niên xuất dương tìm đường cứu nước. Bởi thế, Nghệ An là nơi sinh ra của lớp người cộng sản đầu tiên ở nước ta, như: Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, Trương Vân Lĩnh...

Chính họ là những người đầu tiên gieo hạt giống cách mạng vô sản, truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin vào quần chúng đang sôi sục tinh thần yêu nước trên quê hương của mình và cả nước.

Tháng 4-1924, Lê Hồng Phong cùng Phạm Hồng Thái được kết nạp vào Tân Việt Thanh niên Đoàn (tức Tâm Tâm xã), tại nhà Nguyễn Giảng Khanh - một trong 7 thành viên của tổ chức, nhằm tập hợp những người Việt Nam yêu nước, nhất là lực lượng thanh niên, khôi phục lại đất nước, giành lại quyền làm người của người dân Việt Nam.

Hai tháng sau, vào ngày 19-6-1924, Phạm Hồng Thái được giao nhiệm vụ ám sát Méclanh khi viên Toàn quyền Đông Dương khét tiếng này trên đường sang Nhật ghé qua Quảng Châu dự tiệc ở Sa Diện. Lê Hồng Phong và Lê Hồng Sơn - một thanh niên yêu nước quê ở huyện Nam Đàn (Nghệ An), được giao nhiệm vụ yểm trợ cho Phạm Hồng Thái. Việc không thành, Phạm Hồng Thái nhảy xuống sông Châu Giang hy sinh.

Cuối năm 1924, nhằm tránh sự truy lùng của mật thám, Lê Hồng Phong vào học tại Trường Quân sự Hoàng Phố, khóa 2, kéo dài 16 tháng, do nhiều tướng lĩnh của Hồng quân Liên Xô và nhiều cán bộ ưu tú của Đảng Cộng sản Trung Quốc giảng dạy. Một trong những cố vấn giáo viên của Trường Quân sự Hoàng Phố là A.I.Trêrêpanốp đã xác nhận: “Đồng chí Hồ Chí Minh đã ở Quảng Châu vào những năm 1924 - 1925, đã thường xuyên liên hệ với các học viên Việt Nam ở Trường Quân sự Hoàng Phố”.

Tháng 12-1924, đồng chí Lê Hồng Phong đã được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và từ đây, dưới sự dẫn dắt, đào tạo của Người, Lê Hồng Phong trở thành cán bộ ưu tú của cách mạng, một chiến sĩ cộng sản quốc tế kiên cường.

Tháng 2-1925, Nguyễn Ái Quốc chọn Lê Hồng Phong và một số thanh niên ưu tú thành lập nhóm Cộng sản đoàn, sau đó trở thành nòng cốt để thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên - tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.

Năm 1925, Lê Hồng Phong gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và tham dự lớp huấn luyện cán bộ cách mạng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức, trở thành một trong những cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam được trang bị lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng chí được học tập toàn diện về quân sự và chính trị tại Trường Quân sự Hoàng Phố, Trường Hàng không ở Quảng Châu (Trung Quốc), Trường Lý luận quân sự của lực lượng Không quân Xô viết…

Sau khi tốt nghiệp, Lê Hồng Phong nhận trọng trách liên lạc giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với Quốc tế Cộng sản. Trong thời gian này, đồng chí được học tập lý luận cách mạng tại Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Moscow (1928 - 1931).

Tháng 11-1931, Lê Hồng Phong và Pépnherơ (Trần Đình Long) nhận nhiệm vụ trở về nước tham gia công tác của Ban Chấp ủy Trung ương Đảng, lãnh đạo việc khôi phục, phát triển tổ chức Đảng, đưa cách mạng Đông Dương vượt qua giai đoạn khó khăn, hiểm nghèo.

Khi đến Paris, đồng chí Lê Hồng Phong được biết tình hình trong Đảng đã thay đổi, Ban Chấp ủy Trung ương không còn… Lúc đó tôi (Lê Hồng Phong) và đại diện của các đồng chí ở Pháp quyết định: “Đưa một số sinh viên về nước và vào công tác trong các xí nghiệp, mới có thể bắt được liên lạc với các tổ chức đảng”.

Đầu năm 1932, đồng chí Lê Hồng Phong bắt mối liên lạc với các đồng chí Hoàng Đình Giong, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Văn Nọn, Lương Văn Tri tại Nam Ninh, Quảng Tây (Trung Quốc) và xây dựng lại hệ thống tổ chức của Đảng. Tháng 6-1932, Lê Hồng Phong bàn bạc với các đồng chí lãnh đạo của Đảng cho công bố bản Chương trình hành động của Đảng do đồng chí tham gia khởi thảo và được Quốc tế Cộng sản thông qua.

Giữa năm 1933, đồng chí Lê Hồng Phong và một số đồng chí khác chuẩn bị cho việc thành lập Ban chỉ huy ở nước ngoài. Sau thời gian hoạt động vận động thành lập Ban chỉ huy ở nước ngoài, Lê Hồng Phong đã nhận được thư của đồng chí Hà Huy Tập và Nguyễn Văn Dựt, đến Quảng Châu để gặp hai đồng chí. Tại đây, ngày 1-8-1933, diễn ra cuộc họp quan trọng giữa Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập và Nguyễn Văn Dựt.

Theo chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban chỉ huy ở nước ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập đầu năm 1934, do đồng chí Lê Hồng Phong làm Thư ký (Bí thư). Ban chỉ huy ở nước ngoài giữ vai trò lãnh đạo và tổ chức lại cơ quan Trung ương của Đảng.

Vượt qua cuộc "khủng bố trắng" ác liệt, Đảng ta và các phong trào cách mạng, các cơ sở quần chúng vẫn tồn tại, phát triển rộng khắp. Đồng chí Lê Hồng Phong, Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, cùng các đồng chí lãnh đạo trong nước tổ chức khôi phục phong trào, tổ chức của Đảng và chuẩn bị Đại hội.

Cuối năm 1934, đồng chí Lê Hồng Phong dẫn đầu đoàn đại biểu của Đảng đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản tại Moscow (Liên Xô), ngày 8-12 đoàn đến Moscow.

Từ ngày 27 đến 31-3-1935, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng ở Ma Cao (Trung Quốc), đồng chí Lê Hồng Phong được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và là Tổng thư ký (Tổng Bí thư).

Đại hội chuẩn y việc Ban chỉ huy ở nước ngoài chỉ định các đồng chí Lítvinốp (Lê Hồng Phong), Bà Vai (Nguyễn Thị Minh Khai), Cao Bằng (Hoàng Văn Nọn) là đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản và cử thêm 3 đại biểu khác tham gia đoàn.

Từ ngày 25-7 đến ngày 21-8-1935, tại Moscow, với bí danh Hải An, số thẻ 167, Lê Hồng Phong cùng Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản. Lê Hồng Phong được bầu vào Đoàn Chủ tịch Đại hội, tại Đại hội đồng chí Lê Hồng Phong được bầu là Ủy viên chính thức Ban Chấp ủy Quốc tế Cộng sản và có nhiều hoạt động tích cực đóng góp cho thành công của Đại hội.

Ngày 4-5-1936, sau một thời gian ở Liên Xô, đồng chí Lê Hồng Phong đã gửi thư cho Ban Bí thư Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản: “Đề nghị cho phép được trở về Đông Dương. Vì sau Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản chưa có ai trong số các đại biểu của Đông Dương lên đường về nước và Đảng yêu cầu tôi trở về nước”.

Tháng 7-1936, đồng chí Lê Hồng Phong về đến Thượng Hải (Trung Quốc), triệu tập và chủ trì Hội nghị với các đồng chí trong Ban chỉ huy ở ngoài, bàn về công tác tổ chức của Đảng và đường lối đấu tranh trong tình hình mới sau Đại hội VII Quốc tế Cộng sản. Hội nghị quyết nghị bầu đồng chí Hà Huy Tập là Thư ký Ban chỉ huy ở nước ngoài của Đảng, thay đồng chí Lê Hồng Phong.

Ngày 12-10-1936, tại Nam Kỳ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng được tổ chức lại. Ngày 13 và 14-3-1937, Hội nghị cán bộ ở 3 kỳ cử Ban Chấp hành Trung ương gồm 11 ủy viên. Đồng chí Lê Hồng Phong và đồng chí Phùng Chí Kiên được Ban Chấp hành Trung ương phân công “làm cán bộ dự trữ ở lại nước ngoài”. Ban Thường vụ Trung ương gồm 5 đồng chí do đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư.

Ngày 29-3-1938, trước những biến động mới của tình hình thế giới, nhất là ở Pháp và Đông Dương, Ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp Hội nghị toàn thể (từ ngày 29 đến 30-3-1938) tại xã Tân Thới Nhất, gần Bà Điểm, Gia Định, với sự tham dự của các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong, Võ Văn Tần, Nguyễn Chí Diểu... Tại Hội nghị này, Ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương được củng cố, gồm 11 đồng chí. Ban Thường vụ gồm 5 đồng chí: Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Võ Văn Tần, Nguyễn Chí Diểu. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư.

Đồng chí Lê Hồng Phong và các đồng chí Trung ương đã hoàn chỉnh chủ trương sách lược đấu tranh mới của Đảng trong những năm 1936-1939, chủ trương được Đảng nêu ra bắt đầu từ Hội nghị Thượng Hải tháng 7-1936, góp phần vào việc thành lập Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương đấu tranh chống phát xít, chống hoạt động phá hoại của Trotsky (Tờrốkít) và các khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, tả khuynh ở trong Đảng.

Ngày 22-6-1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị mật thám Pháp bắt tại Sài Gòn. Ngày 30-6-1939, không tìm được bằng chứng để buộc tội đồng chí hoạt động cách mạng, thực dân Pháp đã kết án Lê Hồng Phong 6 tháng tù và 3 năm cấm cứ trú.

Ngày 23-12-1939, chúng đưa đồng chí về quản thúc tại quê nhà Nghệ An. Về Nghệ An, đồng chí Lê Hồng Phong lại bị tòa án thực dân Pháp ở Sài Gòn buộc tội “hoạt động lật đổ” và đòi dẫn độ về Sài Gòn.

Ngày 30-1-1940, đồng chí Lê Hồng Phong bị mật thám Pháp bắt lại tại quê nhà và bị giam tại Khám Lớn, Sài Gòn. Cuối năm 1940, chúng đày đồng chí ra Côn Đảo. Ngày 6-9-1942, tại Côn Đảo, do bị bọn cai ngục đánh đập, hành hạ dã man, đồng chí Lê Hồng Phong lâm bệnh nặng và qua đời ở tuổi 40.

Trước lúc trút hơi thở cuối cùng, đồng chí đã cố gắng nhắn nhủ lại: “Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng”.

Đánh giá về công lao, đóng góp lớn lao của đồng chí Lê Hồng Phong cho Đảng và cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Các đồng chí ta như đồng chí Trần Phú, đồng chí Ngô Gia Tự, đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, đồng chí Hà Huy Tập, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Hoàng Văn Thụ, và trăm nghìn đồng chí khác đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên trên hết, lên trước hết. Các đồng chí đó đã tin tưởng sâu sắc, chắc chắn vào lực lượng vĩ đại và tương lai vẻ vang của giai cấp và của dân tộc. Các đồng chí ấy đã vui vẻ hy sinh hết thảy, hy sinh cả tính mệnh mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc. Các đồng chí ấy đã đem xương máu mình vun tưới cho cây cách mạng, cho nên cây cách mạng đã khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay”

52 năm ký Hiệp định Paris:  đỉnh cao của trí tuệ bản lĩnh ngoại giao Việt Nam Hiệp định Paris không chỉ là thắng lợi của...
26/01/2025

52 năm ký Hiệp định Paris: đỉnh cao của trí tuệ bản lĩnh ngoại giao Việt Nam

Hiệp định Paris không chỉ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam mà còn đi vào lịch sử cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, tự do, tiến bộ và công lý.

Cách đây 52 năm, vào ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam chính thức được ký kết, đánh dấu một mốc son chói lọi trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của nhân dân ta và nền ngoại giao Việt Nam.

Thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược, tạo nên cục diện mới để quân và dân ta tiến lên "đánh cho ngụy nhào" với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, mở ra kỷ nguyên hòa bình, độc lập, thống nhất và phát triển ở Việt Nam.

Cuộc đàm phán thế kỷ

Trong suốt tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, ngoại giao luôn được coi là một mặt trận quan trọng góp phần đánh thắng các thế lực ngoại xâm. Đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là thời kỳ đàm phán ký kết Hiệp định Paris, ngoại giao ta đã phát huy vai trò là một mặt trận quan trọng, chủ động và tích cực đóng góp vào kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Chủ trương nâng đấu tranh ngoại giao thành mặt trận ngoại giao phối hợp với mặt trận chính trị và mặt trận quân sự được Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra tại Hội nghị lần thứ 13 (từ ngày 23 đến 26/1/1967).

Đảng ta chỉ rõ: “Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường".

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, tình hình thay đổi hẳn theo hướng có lợi cho cách mạng Việt Nam, chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ bị thất bại nặng nề, Tổng thống Johnson buộc phải “xuống thang” chiến tranh, tuyên bố đơn phương hạn chế ném bom miền Bắc và buộc phải chấp nhận đàm phán với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Ngày 3/4/1968, Chính phủ ta tuyên bố sẵn sàng cử đại diện tiếp xúc với Mỹ để xác định điều kiện thương lượng giữa hai bên, mở đầu cuộc tiến công trên mặt trận ngoại giao tại Hội nghị quốc tế Paris trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Ngày 13/5/1968, Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam chính thức khai mạc. Khác với Hội nghị Geneva năm 1954, khi đó ta "đánh rồi mới đàm," lần này ta vừa đánh vừa trực tiếp đàm phán với đối phương.

Trong giai đoạn 1 của Hội nghị (13/5 đến 31/10/1968), mục tiêu của ta là đòi Mỹ chấm dứt ném bom vô điều kiện miền Bắc. Giai đoạn này, đàm phán diễn ra gần như đồng thời với đợt hai và ba của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Hai mặt trận đánh-đàm đã có sự phối hợp, hỗ trợ cho nhau nhưng tác dụng trực tiếp còn ít vì trên bàn thương lượng, Mỹ chưa đi vào đàm phán thực chất, chưa "ngả bài" hoàn toàn. Ta chủ yếu đấu tranh để kéo Mỹ xuống thang từng bước.

Tháng 1/1969, Hội nghị 4 bên về Việt Nam chính thức họp phiên đầu tiên tại Paris. Lập trường bốn bên, mà thực chất là của hai bên, Việt Nam và Mỹ, giai đoạn đầu rất xa nhau, mâu thuẫn nhau, khiến cho các cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trên bàn hội nghị, đến mức nhiều lúc phải gián đoạn thương lượng.

Tại hội đàm Paris, Việt Nam đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội và vũ khí ra khỏi miền Nam Việt Nam, xóa bỏ chính quyền bù nhìn tay sai, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam.

Mỹ muốn chấm dứt chiến tranh nhưng đòi hai bên cùng rút quân; đòi khôi phục lại khu phi quân sự và duy trì chính quyền Sài Gòn (nghĩa là vẫn muốn duy trì tình trạng chia cắt Việt Nam thành hai miền). Vì thế, trong thời gian hội đàm, cả hai đều tìm mọi cách giành thắng lợi quyết định về quân sự để thay đổi cục diện chiến trường, lấy đó làm áp lực cho mọi giải pháp chấm dứt chiến tranh trên thế mạnh mà cả hai phía đang giành giật trên bàn đàm phán nhưng chưa đạt kết quả.

Những thắng lợi quân sự của ta trong các Chiến dịch Đường 9-Nam Lào, Đông Bắc và Đông Nam Campuchia trong năm 1971; các Chiến dịch tiến công Trị-Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Bình Định, Khu 8 Nam Bộ… trong năm 1972 đã làm quân Mỹ-nguỵ bị thiệt hại nặng nề, từng bước làm phá sản chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh," đặc biệt là cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị 81 ngày đêm, đã tạo thế thuận lợi cho ta trên bàn đàm phán, phái đoàn Việt Nam đã chủ động tấn công trên bàn đàm phán với việc đưa ra Dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” (ngày 8/10/1972).

Lúc đầu, bản dự thảo được các bên nhất trí nhưng đến ngày 22/10/1972, phía Mỹ lật lọng viện dẫn chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa đổi bản dự thảo.

Đêm 18/12/1972, tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh ném bom hủy diệt Hà Nội và Hải Phòng bằng B-52. Cuộc đụng đầu lịch sử trong 12 ngày đêm được ví là "Trận Điện Biên Phủ trên không" kết thúc bằng việc hàng chục pháo đài bay B-52 và máy bay chiến đấu khác của Mỹ bị bắn rơi ngay trên bầu trời Hà Nội.

Thất bại của Mỹ trên chiến trường miền Nam cùng với thất bại của không quân chiến lược Mỹ trên bầu trời Hà Nội đã đẩy Mỹ vào thế thua không thể gượng nổi, buộc chúng phải nối lại đàm phán tại Paris.

Trên tư thế bên chiến thắng, phái đoàn ta tại cuộc đàm phán đã kiên quyết đấu tranh giữ vững nội dung của dự thảo Hiệp định đã thoả thuận, kết thúc đàm phán để đi đến ký kết.

Như vậy, với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, 500 buổi họp báo, gần 1.000 cuộc phỏng vấn và hàng nghìn cuộc míttinh chống chiến tranh, ủng hộ Việt Nam, cuộc đàm phán Paris về Việt Nam là đàm phán dài nhất trong lịch sử đấu tranh ngoại giao thế giới, kéo dài gần 5 năm (từ 13/5/1968 và kết thúc vào ngày 27/1/1973).

Đây thực sự là cuộc đấu trí vô cùng gay go, phức tạp, đầy kịch tính trên mặt trận ngoại giao, cuối cùng ta đã giành thắng lợi, góp phần quan trọng vào chiến thắng chung của toàn dân tộc. Đó cũng là Hội nghị thể hiện rõ nét nhất, hiệu quả nhất, thành công nhất của nghệ thuật kết hợp đánh-đàm dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Những giá trị to lớn

Hiệp định Paris được ký kết đã kết thúc thắng lợi cuộc đàm phán dài nhất, phức tạp nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam để chấm dứt cuộc chiến tranh dài nhất trong thế kỷ 20.

Thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược, tạo nên cục diện mới để quân và dân ta tiến lên "đánh cho ngụy nhào" với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, mở ra kỷ nguyên hòa bình, độc lập, thống nhất và phát triển ở Việt Nam.

Chiến thắng vĩ đại này là kết tinh thành quả đấu tranh kiên cường, bất khuất và hy sinh vô cùng to lớn của quân và dân ta trên mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ Đồng khởi Bến Tre năm 1960, đến Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, Tiến công chiến lược Xuân-Hè năm 1972 và chiến thắng vang dội 12 ngày đêm "Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không."

Ngoại giao đã trở thành một mặt trận tiến công, kết hợp nhuần nhuyễn và chuyển hóa hoàn toàn thắng lợi trên mặt trận chính trị, quân sự thành thắng lợi trên bàn đàm phán, thể hiện sáng ngời bản lĩnh, cốt cách và trí tuệ Việt Nam, thấm đượm tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh.

Hiệp định Paris không chỉ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam mà còn đi vào lịch sử cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, tự do, tiến bộ và công lý. Phong trào chống chiến tranh xâm lược phi nghĩa và ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chính nghĩa của nhân dân Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và sâu rộng trên thế giới. Phong trào này đã trở thành biểu tượng của thời đại và tiêu biểu cho lương tri loài người.

Vì vậy, chiến thắng của nhân dân Việt Nam tại Hội nghị Paris cũng như trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng là chiến thắng của nhân dân thế giới trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình, là niềm cổ vũ lớn lao cho các dân tộc và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới vững tin vào chiến thắng của chính nghĩa, đạo lý và công lý.

Quá trình đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Paris là một pho sách vô cùng quý báu về trường phái đối ngoại và ngoại giao Việt Nam với nhiều bài học mãi mãi còn nguyên giá trị.

Đó là bài học về phát huy sức mạnh tổng hợp chính trị-kinh tế, quốc phòng-an ninh và ngoại giao để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, phối hợp chặt chẽ giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự, chính trị, lấy thắng lợi quân sự và chính trị là cơ sở để tiến công ngoại giao, đoàn kết quốc tế, cô lập kẻ thù.

Đó là bài học về quán triệt sâu sắc tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó còn là bài học sâu sắc về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, đó là bài học về giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong toàn bộ quá trình đấu tranh trên mặt trận ngoại giao.

Trong công cuộc phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, bản sắc văn hóa và ngoại giao của dân tộc cùng với những bài học lịch sử của Hội nghị Paris, Việt Nam nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; từng bước xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.

Đối ngoại-ngoại giao Việt Nam tiếp tục khẳng định vai trò tiên phong, góp phần tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; phục vụ đắc lực cho phát triển và nâng cao vị thế, uy tín và tầm vóc mới của đất nước.

Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 nước, vùng lãnh thổ trên khắp năm châu; xây dựng các mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới; đặc biệt có quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện với 9 quốc gia, gồm: Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Australia, Pháp và Malaysia.

Trên bình diện đa phương, Việt Nam ngày càng khẳng định năng lực, vai trò và trách nhiệm của mình trong các vấn đề quốc tế. Trên các diễn đàn quốc tế như ASEAN, Liên hợp quốc, Tiểu vùng Mekong, APEC, G20, BRICS, AIPA, Phong trào Không liên kết, Pháp ngữ, Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò chủ động, tích cực.

Lần đầu tiên chúng ta tổ chức thành công Diễn đàn tương lai ASEAN, thiết lập cơ chế trao đổi, thúc đẩy vai trò của Việt Nam trong định hình tương lai của ASEAN sau năm 2025, tầm nhìn đến 2045.

Năm 2025 là năm quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt đối với dân tộc ta, là năm kỷ niệm 80 năm thành lập nước và 50 năm thống nhất đất nước, năm cuối quyết định việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, đồng thời cũng là năm bản lề bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đất nước ta đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, đặt ra những nhiệm vụ mới cho đối ngoại, ngoại giao.

Tại buổi làm việc với Ban Cán sự đảng Bộ Ngoại giao tháng 8/2024, Tổng Bí thư Tô Lâm đã yêu cầu trong thời gian tới, công tác đối ngoại, ngoại giao cần "chủ động, kịp thời phát hiện cơ hội, thách thức, tăng cường đóng góp tích cực của ngoại giao trong thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập nước," "nâng tầm, mở rộng đóng góp của Việt Nam cho sự nghiệp cách mạng thế giới, cho hòa bình, hợp tác, phát triển và tiến bộ của nhân loại" và "lan tỏa mạnh mẽ phiên bản Việt Nam độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, hữu nghị, phát triển, phồn vinh, hạnh phúc".

Do đó, nhiệm vụ bao trùm của đối ngoại-ngoại giao trong năm 2025 cũng như cho kỷ nguyên mới là tiếp tục kế thừa các mục tiêu, nguyên tắc, phương châm, phương thức đối ngoại đã được khẳng định trong chặng đường 80 năm của nền đối ngoại, ngoại giao cách mạng Việt Nam.

Và những bài học kinh nghiệm trong Hội nghị Paris và Hiệp định Paris vẫn còn nguyên giá trị thời đại, rất cần được tiếp tục vận dụng sáng tạo để triển khai thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng trong thời kỳ mới./.

/Vietnam+

Address

175, Quốc Lộ 62, Phường 6
Tân An

Telephone

+84968559961

Website

https://quansu.longan.gov.vn/

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Trung Dũng Kiên Cường posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Trung Dũng Kiên Cường:

Videos

Share