19/05/2024
HÀNH TRÌNH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CỦA HỒ CHỦ TỊCH
Chủ tịch Hồ Chí Minh, tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, là nhà cách mạng, người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20, một chiến sĩ cộng sản quốc tế. Từ một người sinh ra trong gia đình yêu nước, sau 30 năm hoạt động, tìm kiếm lí tưởng đấu tranh giành độc lập ở nước ngoài, Bác đã là một người theo chủ nghĩa Marx-Lenin, là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của mình, Hồ Chí Minh đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân, Hồ Chí Minh sớm có chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Với ý chí và quyết tâm đó, tháng 6/1911, Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc.
Từ năm 1912 - 1917, dưới cái tên Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh đến nhiều nước ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, sống hoà mình với nhân dân lao động. Qua thực tiễn, Hồ Chí Minh cảm thông sâu sắc cuộc sống khổ cực của nhân dân lao động và các dân tộc thuộc địa cũng như nguyện vọng thiêng liêng của họ. Hồ Chí Minh sớm nhận thức được cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam là một bộ phận trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới và tích cực hoạt động nhằm đoàn kết nhân dân các dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.
Cuối năm 1917, Hồ Chí Minh từ Anh trở lại Pháp, hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp.
Năm 1919, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị Vécxây (Versailles) bản yêu sách đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam và cũng là quyền tự do cho nhân dân các nước thuộc địa.
Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp và bỏ phiếu tán thành Đảng gia nhập Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản), trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một người yêu nước trở thành một người cộng sản, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp, Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa. Tháng 4/1922, Hội xuất bản báo “Người cùng khổ” (Le Paria) nhằm đoàn kết, tổ chức và hướng dẫn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Nhiều bài báo của Nguyễn Ái Quốc đã được đưa vào tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, xuất bản tại Paris năm 1925. Đây là một công trình nghiên cứu về bản chất của chủ nghĩa thực dân, góp phần thức tỉnh và cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng.
Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô, làm việc tại Quốc tế Cộng sản. Tháng 10/1923, tại Hội nghị Quốc tế Nông dân lần thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc được bầu vào Hội đồng Quốc tế Nông dân và là đại biểu duy nhất của nông dân thuộc địa được cử vào Đoàn Chủ tịch của Hội đồng. Tiếp đó tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V, Đại hội Quốc tế Thanh niên lần thứ IV, Đại hội Quốc tế Công hội đỏ. Tại các đại hội, Nguyễn Ái Quốc kiên trì bảo vệ và phát triển sáng tạo tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, hướng sự quan tâm của Quốc tế Cộng sản tới phong trào giải phóng dân tộc.
Tháng 11/1924, với tư cách là Uỷ viên Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản và Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc làm việc trong đoàn cố vấn Bôrôđin của Chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Tôn Dật Tiên.
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, trực tiếp mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cách mạng, ra tuần báo “Thanh niên”, tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện được tập hợp in thành sách “Đường Kách mệnh” - một văn kiện lý luận quan trọng đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam.
Tháng 5/1927, Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu đi Mátxcơva (Liên Xô), sau đó đi Béclin (Đức), đi Brúcxen (Bỉ), tham dự phiên họp mở rộng của Đại hội đồng Liên đoàn chống chiến tranh đế quốc, sau đó đi Ý và từ đây về châu Á.
Từ tháng 7/1928 đến tháng 11/1929, Nguyễn Ái Quốc hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước ở Xiêm (Thái Lan), tiếp tục chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long, thuộc Hồng Kông (Trung Quốc). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam. Tháng 6/1931, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh bắt giam tại Hồng Kông. Đầu năm 1933, Nguyễn Ái Quốc được trả tự do.
Từ năm 1934 đến năm 1938, Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc thuộc địa tại Mátxcơva (Liên Xô). Kiên trì con đường đã xác định cho cách mạng Việt Nam, Người tiếp tục theo dõi, chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước. Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô sang Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức Đảng chuẩn bị về nước.
Sau hành trình 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước ở nước ngoài, ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc, cùng Trung ương Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do. Tại Pác Bó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã bắt tay vào việc xây dựng căn cứ địa cách mạng, liên tiếp mở các lớp huấn luyện ngắn ngày nhằm đào tạo cán bộ cho phong trào cách mạng, đồng thời chuẩn bị cho triệu tập Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng bàn về chủ trương cứu nước và giải phóng dân tộc. Với tư cách là đại biểu Quốc tế Cộng sản, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII tại Pác Bó từ ngày 10 đến 19/5/1941, đánh dấu sự hoàn chỉnh đường lối chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xử lý đúng đắn đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, quyết tâm, giành độc lập với khẩu hiệu độc lập trên hết, Tổ quốc trên hết. Hội nghị cũng đã thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, sáng lập ra Báo Việt Nam Độc lập. Đây là cơ sở cho sự xây dựng lực lượng chính trị cách mạng và tập hợp quần chúng nhân dân cũng như chuẩn bị cho cuộc Cách mạng tháng 8.
Đến tháng 8/1942, Bác Hồ lấy tên là Hồ Chí Minh (tên Hồ Chí Minh bắt đầu được Bác dùng từ ngày đó), từ Lam Sơn về Pác Bó, rồi sang Trung Quốc gặp chính quyền Tưởng Giới Thạch, bàn về mối quan hệ giữa hai nước trong công cuộc chống Nhật. Không may khi đến Thôn Túc Vinh – một thôn của huyện Đức Bảo, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, Người bị chính quyền địa hương Tưởng Giới Thạch bắt giữ chúng giải Bác đi khắp 31 nhà lao của 13 huyện thị thuộc Quảng Tây - Trung Quốc. Tập thơ “Ngục trung nhật ký” tức Nhật ký trong tù đã ra đời trong thời gian này. Mặc dù sống trong chế độ hà khắc của nhà tù, nhưng Người vẫn luôn luôn lạc quan, ngày đêm nhớ về Tổ Quốc, hướng về quê hương.
“Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao”
“Trích trong Nhật ký trong tù”
Sau hơn 1 năm giam giữ, chính quyền của Tưởng đã không thể khai thác được gì, buộc phải trả lại tự do cho Bác ở Liễu Châu vào ngay27/ 9/1943, khi được trả lại tự do, Người lại trở về Pác Bó. Và tại Nà Sác - Hà Quảng, Người ra chỉ thị thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, là thành quả của cuộc đấu tranh kiên cường của cả dân tộc Việt Nam do Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo. Đó là thành quả của ý chí tự lực, tự cường, khát vọng độc lập, tự do, phát triển đất nước mà Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nêu cao và được cả dân tộc nhận thức và hành động.
Sau khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập ở quảng trường Ba Đinh vào ngày 2/9/1945, Bác cùng với Đảng đã từng bước giải quyết nạn “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”, xây dựng khối Đại đoàn kết dân tộc. Khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, của Hồ Chủ tịch, toàn thể dân tộc Việt Nam trải qua nhiều hy sinh, gian khổ, nhưng vô cùng anh dũng và tự hào, đã làm nên một Điện Biên lịch sử - “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, chính phủ non trẻ cũng đã xây ựng được mối quan hệ ngoại giao với các nước anh em XHCN.
Từ ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là hậu phương vững chắc cho cách mạng cả nước. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Từ miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng ngày đêm tập trung sức lực, trí tuệ, chỉ đạo cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, cũng như là xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng thành hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến trường kì.
Từ khoảng nửa cuối những năm 60, do sức khỏe suy giảm, Bác Hồ đã phải giảm dần các hoạt động chính trị, dần bàn giao công việc cho Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, nắm giữ vai trò biểu tượng của cách mạng, dành nhiều thời gian để đi thăm hỏi, động viên cán bộ và đồng bào, và viết báo. Người bắt đầu viết di chúc vào năm 1965 – khi sức khoẻ dần yếu đi, và sửa lại trong những dịp sinh nhật tiếp theo. Trong di chúc, Người có viết: ” Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.”; “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.”
Từ khi ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1911), đến khi về cõi vĩnh hằng (1969) với sự cống hiến, hy sinh cả cuộc đời mình cho dân tộc, Người đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử cao cả, đáp ứng khát vọng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Người tin tưởng: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, Bắc - Nam sum họp một nhà, đất nước độc lập, thống nhất, khát vọng cứu nước, giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã thành hiện thực. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập với thế giới, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.