Trang Tin Năm Căn

Trang Tin Năm Căn ĐẢNG BỘ, DÂN VÀ QUÂN HUYỆN NĂM CĂN QUYẾT TÂM THỰC HIỆN THẮNG LỢI NGHỊ QUYẾT LẦN THỨ XII, NK 2020-2025

Huyện Năm Căn: Khai mạc Giải Bóng chuyền nhân kỷ 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam ( 22/12/1944 - 22/12/2...
14/12/2024

Huyện Năm Căn: Khai mạc Giải Bóng chuyền nhân kỷ 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam ( 22/12/1944 - 22/12/2024)

T/h: Trần Thuật

84 năm, sáng mãi tinh thần khởi nghĩa Hòn Khoai-------Kỷ niệm 84 năm Ngày truyền thống cách mạng của Đảng bộ, quân và dâ...
13/12/2024

84 năm, sáng mãi tinh thần khởi nghĩa Hòn Khoai
-------
Kỷ niệm 84 năm Ngày truyền thống cách mạng của Đảng bộ, quân và dân tỉnh Cà Mau (13/12/1940-13/12/2024), sáng nay (13/12), đồng chí Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên B*H TW Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh cùng Đoàn cán bộ Tỉnh ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Cà Mau, quân và dân trong tỉnh đến viếng, dâng hoa, dâng hương tại Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, phường 1, TP Cà Mau.
-------
https://baocamau.vn/84-nam-sang-mai-tinh-than-khoi-nghia-hon-khoai-a36110.html
-------

13/12/2024

Bộ Y tế thông tin về dịch bệnh lạ ở Congo

CÁCH MẠNG TINH GỌN: SỰ THẬT GIỮA LÀN SÓNG XUYÊN TẠC BỘ CÔNG AN Trong bối cảnh đất nước đang ráo riết thực hiện kế hoạch ...
12/12/2024

CÁCH MẠNG TINH GỌN: SỰ THẬT GIỮA LÀN SÓNG XUYÊN TẠC BỘ CÔNG AN

Trong bối cảnh đất nước đang ráo riết thực hiện kế hoạch sắp xếp và tinh gọn bộ máy toàn hệ thống chính trị, từ Chính phủ, Quốc hội cho tới các hội, ban ngành từ trung ương đến địa phương, lại xuất hiện những luận điệu xuyên tạc về quá trình cải cách này. Các trang mạng chống phá như Chân trời mới media, RFA, Việt Tân lu loa rằng "Bộ Công an thoát hiểm thần kỳ trong làn sóng tinh gọn bộ máy nhà nước".

Thực tế hoàn toàn ngược lại. Theo Kế hoạch 141/KH-BCĐTKNQ18 ban hành ngày 06/12/2024 vừa qua, Bộ Công an là một trong năm bộ được duy trì với yêu cầu sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy bên trong. Cụ thể, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Công Thương, và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ phải thực hiện tinh gọn một cách hệ thống và có trọng tâm. Trọng điểm là giảm thiểu các tổng cục, hạn chế tối đa việc chuyển vụ thành cục, và chỉ duy trì các đơn vị thực sự cần thiết. Mỗi bộ chỉ giữ một đầu mối cho các lĩnh vực chính, từng bước loại bỏ sự chồng chéo, trùng lặp.

Điều quan trọng là Bộ Công an không phải mới bắt đầu tinh giản, mà đã thực hiện quá trình này từ năm 2017 và kéo dài đến hết năm 2023 với những thành quả ấn tượng. Từ năm 2017-2018, Bộ đã ban hành các nghị quyết đổi mới; năm 2018 có nghị định quy định chức năng; và đến năm 2023 tiếp tục hoàn thiện bộ máy.

Những con số minh chứng cho quá trình cải cách của Bộ Công an thật sự khó có thể phủ nhận:

- Giải thể 6 Tổng cục
- Giảm 55 đơn vị cấp cục
- Cắt giảm gần 300 đơn vị cấp phòng
- Sáp nhập 20 đơn vị Cảnh sát PCCC
- Giảm hơn 500 đơn vị cấp phòng tại địa phương
- Tinh giản trên 1.000 đầu mối cấp đội

Đây chính là thành quả từ thời Tổng Bí thư Tô Lâm còn giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Công an. Những nền tảng cải cách do ông để lại chính là căn cứ quan trọng để Đảng và Nhà nước tiếp tục yêu cầu tinh gọn, giúp đất nước bước vào kỷ nguyên mới với một bộ máy tinh gọn, hiệu quả.

Từ đó để khẳng định rõ ràng rằng, Bộ Công an không phải là lực lượng đang tìm cách "thoát hiểm", mà là tiên phong trong cải cách, luôn chủ động thay đổi để phục vụ nhân dân tốt hơn.

CT Việt Nam

10/12/2024

Kiến nghị sáp nhập Đài PT-TH và Báo Cà Mau

PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HOÁ” TRONG CHÍNH MỖI CÁ NHÂN “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam hiện nay...
07/12/2024

PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HOÁ” TRONG CHÍNH MỖI CÁ NHÂN

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp, với nhiều mức độ khác nhau trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây thực sự là một hiểm họa tiềm tàng, một loại kẻ thù giấu mặt, một thứ “giặc nội xâm” rất khó nhận diện. Nó là thách thức trong xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thực chất là quá trình thay đổi lập trường tư tưởng, mục tiêu, ý chí, bản chất cách mạng của người cộng sản. Là quá trình từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, từ bỏ lợi ích giai cấp và lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích cá nhân làm trọng. Hay nói một cách khác, “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” là quá trình thay đổi về chất cộng sản trong mỗi cá nhân. Khi cá nhân ấy giữ vị trí nhất định trong bộ máy, nó sẽ làm thay đổi hệ tư tưởng của cả một tổ chức. Trong thực tế cách mạng Việt Nam hiện nay, đó chính là sự thay đổi trong quan điểm, tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Sự thay đổi này đưa tới những hành động đi ngược lại, thậm chí chống lại quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói như thế để thấy rằng, tất cả bắt đầu từ nhận thức rồi từ đó, cá nhân tự đánh mất bản lĩnh, ý chí, mục tiêu, những phẩm chất nội tại trong mỗi cá nhân. Nếu bản lĩnh vững vàng, giữ vững ý chí, lập trường, kiên định mục tiêu thì dẫu tác động khách quan bên ngoài có như thế nào vẫn không thể dẫn đến sự diễn biến, chuyển hóa của bản thân. Sự nguy hiểm của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là cá nhân đó giấu sau vỏ bọc người của tổ chức, của chính quyền hay “trong vai người hiểu biết” rồi như “vết dầu loang”, tác động đến các cá nhân khác xung quanh. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là sự suy thoái từ bên trong, là quá trình tự biến đổi về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của mỗi cá nhân theo chiều hướng đi ngược lại lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc. Chủ thể của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không chỉ là cán bộ, đảng viên mà ở tất cả mọi cá nhân. “Tự diễn biến” là quá trình thẩm thấu từng ngày, từng hoạt động của các chủ thể. “Tự chuyển hóa” là đích đến, là hệ quả của “tự diễn biến” của mỗi cá nhân, tổ chức. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Do đó, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của mỗi cá nhân đều có tác động, ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến sự phát triển của mục tiêu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Trước những diễn biến phức tạp, tư tưởng phải vững vàng; trước những tác động xấu, bản lĩnh càng phải cao; trước thách thức, ý chí càng phải lớn và trước khó khăn, mục tiêu càng phải kiên định. Đây không chỉ là yêu cầu tính chiến đấu, chất cách mạng, mà đó còn là sự tự “miễn dịch” với những gì tác động xấu, khách quan từ bên ngoài. Đó là quá trình tự rèn luyện, tự ý thức, tự xây dựng bản lĩnh, nhân cách với quyết tâm cao, là sự khẳng định sự đúng đắn từ nhận thức đến hành động của người cách mạng chân chính. Vì thế, mỗi quân nhân chúng ta cần tăng cường rèn luyện bản thân, tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, miễn dịch với các tiêu cực của xã hội để chống lại “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ chính bản thân mình./.

Sáng Mãi Niềm Tin.

CÀ MAU: NGƯỜI PHỤ NỮ KHỞI NGHIỆP TỪ BỘT NGHỆ  : Từ việc mong muốn tận dụng được sản phẩm nghệ bị loại trong quá trình bá...
29/11/2024

CÀ MAU: NGƯỜI PHỤ NỮ KHỞI NGHIỆP TỪ BỘT NGHỆ

: Từ việc mong muốn tận dụng được sản phẩm nghệ bị loại trong quá trình bán nghệ tươi, chị Lâm Hằng Ni ở Cà Mau đã chế biến ra tinh bột nghệ. Sản phẩm tốt cho sức khỏe nên được đánh giá cao, đạt giải Phụ nữ khởi nghiệp quốc gia.

(Trần Hiếu/VOV ĐBSCL)

TẠI SAO THỜI ĐIỂM BẮT ĐẦU KỶ NGUYÊN MỚI CHÍNH LÀ ĐẠI HỘI XIV 13 kỳ Đại hội với nhiệm vụ chính trị khác nhau nhưng đều là...
27/11/2024

TẠI SAO THỜI ĐIỂM BẮT ĐẦU KỶ NGUYÊN MỚI CHÍNH LÀ ĐẠI HỘI XIV

13 kỳ Đại hội với nhiệm vụ chính trị khác nhau nhưng đều là những dấu mốc quan trọng về sự phát triển của Đảng, của đất nước. Ở giai đoạn mới với những điều chưa từng có tiền lệ, Đại hội XIV được người đứng đầu Đảng nhấn mạnh là thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới.

Trong dòng chảy lịch sử phát triển của Đảng, Đại hội XIV không phải là một sự kiện đơn lẻ, mà là kết quả của một quá trình chuẩn bị toàn diện, sâu sắc và quyết liệt. Đó là một hành trình tự chỉnh đốn, tự làm mới, được xây dựng từng bước với sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt.

Sự chuẩn bị này được thể hiện rõ nét qua nhiều khía cạnh quan trọng.

Trước hết, đã nhận thức sâu sắc về những yếu kém trong nhiệm kỳ trước, đặc biệt là sự vi phạm của 7 ủy viên Bộ Chính trị, trong đó có những lãnh đạo cao nhất như Chủ tịch nước và Chủ tịch Quốc hội. Đây không chỉ là một sự kiện, mà còn là một bài học xương máu về sự suy thoái của đạo đức cách mạng.

Từ nhận thức đó, đã tiến hành một cuộc "phẫu thuật" toàn diện trong công tác cán bộ. Không còn là việc chọn người phù hợp với đường lối một cách máy móc hay gọi là đúng quy trình, mà là tìm kiếm những cán bộ có năng lực thực sự, có tầm nhìn chiến lược và bản lĩnh chính trị, đủ khả năng đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.

Một điểm đột phá khác là việc đưa chống lãng phí ngang hàng với chống tham nhũng. Đây không phải là một chiến dịch đơn thuần, mà là một chiến lược toàn diện nhằm thanh lọc hệ thống, nâng cao hiệu quả quản trị và khắc phục tình trạng suy thoái. Việc này cho thấy sự nhạy bén và quyết tâm trong việc giải quyết những vấn đề nội tại.

Công tác văn kiện cũng được tiến hành một cách kỹ lưỡng và chiến lược. Mỗi văn bản không chỉ là những chữ viết trên giấy, mà là kết quả của sự phân tích sâu sắc, đánh giá thực tiễn và định hướng phát triển mới.

Yêu cầu cải cách hệ thống chính trị được đặt ra với một tinh thần cách mạng chưa từng có. Không phải là những thay đổi bề mặt, mà là một cuộc cải tổ sâu rộng, đòi hỏi sự quyết liệt và không chậm trễ. Mục tiêu là xây dựng một hệ thống chính trị năng động, minh bạch, hiệu quả và gần dân.

Toàn bộ quá trình chuẩn bị đều hướng tới việc xây dựng một nền tảng vững chắc, cả về nguồn lực vật chất lẫn nguồn nhân lực chất lượng cao.

Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh, Đại hội XIV chính là thời điểm bắt đầu của một kỷ nguyên mới - một kỷ nguyên của sự thẳng thắn, bản lĩnh và quyết tâm phát triển. Đó không chỉ là một sự kiện chính trị, mà còn là một bước ngoặt quan trọng, chứng minh khả năng tự làm mới, tự phê bình và không ngừng phát triển.

CT Việt Nam

Trường THCS Phan Ngọc Hiển tổ chức  Hội thi thuyết trình “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh”. FB Trần Thuật
27/11/2024

Trường THCS Phan Ngọc Hiển tổ chức Hội thi thuyết trình “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh”. FB Trần Thuật

🌸🌼Thủ tướng Chính phủ đồng ý với đề xuất nghỉ Tết Ất Tỵ 9 ngày liên tụcTheo phương án Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội...
27/11/2024

🌸🌼Thủ tướng Chính phủ đồng ý với đề xuất nghỉ Tết Ất Tỵ 9 ngày liên tục

Theo phương án Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội trình Thủ tướng, Tết Nguyên đán năm 2025, cán bộ, công chức, viên chức được nghỉ 9 ngày liên tục, gồm 5 ngày nghỉ Tết và 4 ngày nghỉ hằng tuần.

Cụ thể, công chức, viên chức, người lao động được nghỉ Tết Nguyên đán 5 ngày, từ thứ Hai, ngày 27/1/2025 đến hết thứ Sáu, ngày 31/1/2025 (tức 28 tháng Chạp năm Giáp Thìn đến ngày mùng 3 tháng Giêng năm Ất Tỵ).

Tuy nhiên, do năm 2025, cả 5 ngày nghỉ Tết Nguyên đán rơi vào các ngày làm việc trong tuần nên người lao động được nghỉ thêm 2 ngày nghỉ cuối tuần trước và 2 ngày nghỉ sau nghỉ Tết.

Do vậy, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội trình phương án công chức, viên chức, người lao động thuộc các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, doanh nghiệp sẽ được nghỉ từ 25/1-2/2/2025 (26 tháng Chạp đến hết mùng 5 tháng Giêng).

Phương án này giúp người lao động có thêm thời gian bên gia đình, kích cầu du lịch, mua sắm hàng hóa.
HSV

TINH - GỌN - MẠNH - HIỆU NĂNG - HIỆU LỰC - HIỆU QUẢ1. Trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn đặc biệt coi...
25/11/2024

TINH - GỌN - MẠNH - HIỆU NĂNG - HIỆU LỰC - HIỆU QUẢ

1. Trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Đây là một trong những yếu tố then chốt đưa Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành người cầm lái vĩ đại, người thuyền trưởng tinh anh đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Điểm hội tụ chiến lược sau 40 năm đổi mới đất nước đang đem đến cơ hội lịch sử đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; cũng đặt ra yêu cầu cấp bách thực hiện quyết liệt cuộc cách mạng nhằm xây dựng hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.

Mô hình tổng thể tổ chức bộ máy hệ thống chính trị nước ta từ năm 1945 đến nay cơ bản ổn định gồm 3 khối (Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội). Với cơ chế vận hành Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, tổ chức bộ máy của từng khối đã có sự điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu cách mạng của từng giai đoạn lịch sử. Từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI đến nay, khái niệm “hệ thống chính trị” chính thức được sử dụng đánh dấu sự phát triển tư duy, nhận thức của Đảng về yêu cầu, nhiệm vụ đối với hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới.

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt và đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn phát triển nóng bỏng của đất nước, qua nhiều kỳ đại hội, nhất là trong các đại hội gần đây, trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, XII, XIII đều nhấn mạnh các nhiệm vụ cụ thể về tinh gọn tổ chức bộ máy hoặc nghiên cứu xây dựng mô hình tổng thể tổ chức bộ máy hệ thống chính trị trong giai đoạn mới. Từ Đại hội VII đến nay, Đảng ta liên tục ban hành nhiều nghị quyết, kết luận để lãnh đạo thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn tổ chức bộ máy hoạt động hiệu lực hiệu quả, như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 9-2-2007, Ban Chấp hành Trung ương khóa X về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, định hướng đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 1-8-2007, của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước; Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 2-2-2008, của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-1-2012, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng; Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; Kết luận số 50-KL/TW, ngày 28-2-2023, của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW; Kết luận số 37-KL/TW, ngày 2-2-2009 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ đến năm 2020; Kết luận số 63-KL/TW, ngày 27-5-2013, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI một số vấn đề về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020; Kết luận số 64-KL/TW, ngày 28-5-2013, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương; Kết luận số 62-KL/TW, ngày 8-12-2009, của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17-4-2015, của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Thực hiện các nghị quyết, kết luận của Đảng, hệ thống tổ chức đảng các cấp, bộ máy nhà nước từ Trung ương tới cơ sở, tổ chức cơ quan Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước được đổi mới, phát huy hiệu lực, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị cơ bản ổn định, phù hợp với Cương lĩnh và Hiến pháp; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thông qua vai trò, sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng; giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền; kinh tế - xã hội phát triển, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân. Những đổi mới về thể chế, trọng tâm là đổi mới công tác tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là một trong những điều kiện cơ bản, quyết định đạt được những thành tựu vĩ đại sau 40 năm đổi mới đất nước.

Qua 7 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, chúng ta đã đạt được một số kết quả quan trọng, bước đầu tạo chuyển biến tích cực trong đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ thống chính trị. Tuy nhiên, nhận thức và hành động của một số cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo, người đứng đầu ở một số cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, quyết tâm chưa cao, hành động chưa quyết liệt, việc sắp xếp tổ chức bộ máy chưa đồng bộ, tổng thể, chưa gắn tinh giản biên chế với cơ cấu lại... một số bộ, ngành còn ôm đồm nhiệm vụ của địa phương, dẫn đến tồn tại cơ chế xin - cho, dễ này sinh tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... Chính vì vậy, cho đến nay, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, quan hệ công tác giữa nhiều cơ quan, bộ phận chưa thật rõ ràng, còn trùng lắp, chồng chéo; phân định trách nhiệm, phân cấp, phân quyền chưa đồng bộ, hợp lý, có chỗ bao biện làm thay, có nơi bỏ sót hoặc không đầu tư thích đáng… Chất lượng tham mưu, đề xuất của một cơ quan, tổ chức đảng với Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với một số lĩnh vực còn hạn chế; năng lực điều phối, hướng dẫn, tổ chức thực hiện trong toàn Đảng chưa đáp ứng yêu cầu đề ra; phân định phạm vi quản lý đa ngành, đa lĩnh vực của các bộ chưa triệt để; một số nhiệm vụ liên thông, gắn kết nhau hoặc cùng một lĩnh vực nhưng giao cho nhiều bộ quản lý. Tổ chức bộ máy của một số cấp, ngành đến nay cơ bản vẫn giữ nguyên về số lượng, việc sắp xếp chưa gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả, xác định vị trí việc làm, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ. Bộ máy trong bộ, cơ quan ngang bộ còn nhiều tầng nấc, có cấp không rõ địa vị pháp lý; đơn vị trực thuộc có tư cách pháp nhân tăng, gia tăng tình trạng “bộ trong bộ”. Tinh giản biên chế mới tập trung giảm số lượng, chưa gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ.

Những tồn tại, hạn chế, sự chậm chạp, thiếu quyết liệt trong thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gây ra nhiều hệ luỵ nghiêm trọng. Bộ máy cồng kềnh gây lãng phí và kìm hãm sự phát triển, là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều chủ trương, chính sách của Đảng chậm đi vào thực tiễn cuộc sống hoặc một số chủ trương không được triển khai hoặc triển khai hình thức trên thực tế. Sự chồng chéo, phân định không rõ chức năng, nhiệm vụ dẫn đến không rõ trách nhiệm, “lấn sân”, cản trở, thậm chí “vô hiệu hóa” lẫn nhau, làm giảm tính chủ động, sáng tạo, dẫn đến năng suất lao động, hiệu suất công tác thấp, đùn đẩy trách nhiệm, tiêu cực, cản trở phát triển, phát sinh phiền nhiễu, giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Tầng nấc trung gian dẫn đến mất thời gian qua “nhiều cửa” thủ tục hành chính, gây cản trở, thậm chí tạo điểm nghẽn, làm lỡ cơ hội phát triển. Chi phí vận hành hệ thống tổ chức bộ máy lớn, làm giảm nguồn lực cho đầu tư phát triển, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. So với những thay đổi to lớn của đất nước sau 40 năm đổi mới, sự phát triển của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và những thành tựu khoa học - công nghệ, tổ chức bộ máy hệ thống chính trị nước ta tuy đã được đổi mới ở một số bộ phận, nhưng cơ bản vẫn theo mô hình được thiết kế từ hàng chục năm trước, nhiều vấn đề không còn phù hợp với điều kiện mới là trái với quy luật phát triển; tạo ra tâm lý “Nói không đi đôi với làm”.

2. Thời điểm 100 năm đất nước ta dưới sự lãnh đạo Đảng và 100 năm thành lập nước không còn xa, để đạt được các mục tiêu chiến lược, không chỉ đòi hỏi những nỗ lực phi thường, những cố gắng vượt bậc, mà còn không cho phép chúng ta chậm trễ, lơi lỏng, thiếu chính xác, thiếu đồng bộ, thiếu nhịp nhàng trên từng bước đi; muốn vậy cần khẩn trương thực hiện cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, với một số công tác trọng tâm, sau đây:
Thứ nhất, xây dựng và tổ chức thực hiện trong toàn hệ thống chính trị mô hình tổng thể tổ chức bộ máy hệ thống chính trị Việt Nam đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Tập trung tổng kết 7 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, đánh giá nghiên túc, toàn diện về tình hình và kết quả đạt được, những ưu điểm, khuyết điểm, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện nghị quyết; đề xuất, kiến nghị với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Tổng kết phải tiến hành khách quan, dân chủ, khoa học, cụ thể, sâu sắc, cầu thị, sát đúng với tình hình thực tiễn từ đó đề xuất mô hình tổ chức mới, đánh giá ưu điểm và tác động khi thực hiện mô hình mới, phải bám sát Hiến pháp, Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nguyên tắc của Đảng, các nghị quyết của Trung ương... bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông, một cơ quan thực hiện nhiều việc, một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì và chịu trách nhiệm chính; khắc phục triệt để chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, chia cắt về địa bàn, lĩnh vực; hạn chế tổ chức trung gian; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm cụ thể trên cơ sở tính đảng, tính hợp lý, tính hợp pháp.

Thứ hai, tập trung hoàn thiện thể chế theo tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng” để nhanh chóng đưa chủ trương của Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống. Rà soát các quy định pháp luật có liên quan để chủ động chuẩn bị sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới theo đúng quy định, bảo đảm chủ trương của Đảng được triển khai nhanh nhất sau khi được Trung ương thống nhất thông qua. Tập trung hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, gắn với tinh thần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, Trung ương, Chính phủ, Quốc hội tăng cường hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát và cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp. Quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước, bảo đảm sự phân biệt rõ cấp ban hành chủ trương, chính sách, pháp luật với cấp tổ chức thực hiện.

Thứ ba, gắn tinh gọn tổ chức bộ máy với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ, biên chế hợp lý, chuẩn hóa chức danh. Ban hành quy định về khung tiêu chuẩn, tiêu chí bố trí cán bộ ở từng cấp, từ Trung ương tới cơ sở, từng loại hình để chủ động rà soát, xác định có thể bố trí ngay. Đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm được, không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong đánh giá cán bộ. Có cơ chế hữu hiệu sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín và sử dụng đối với người có năng lực nổi trội.

V.I Lê-nin khi nói về cải tiến bộ máy nhà nước đã nhấn mạnh: “Phải tuân theo quy tắc này: thà ít mà tốt... Tôi biết rằng giữ vững quy tắc ấy và vận dụng được nó vào tình hình thực tế của chúng ta là khó khăn... Tôi biết rằng sẽ phải kháng cự một cách mãnh liệt, sẽ phải tỏ ra kiên trì phi thường... Song tôi vẫn tin chắc rằng chỉ có tiến hành công tác đó, chúng ta mới có thể xây dựng được một nước cộng hòa thật sự xứng danh là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-Viết”(1); xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, tất cả vì sự một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, sớm sánh vai với các cường quốc năm châu./.

Tạp chí Lý luận Chính trị

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI, BẢO ĐẢM AN SINH VÀ PHÚC LỢI XÃ HỘI TRONG TÌNH HÌNH MỚIThực hiện tốt chính sách xã hội, bảo ...
20/11/2024

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI, BẢO ĐẢM AN SINH VÀ PHÚC LỢI XÃ HỘI TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người chính là bảo đảm và thúc đẩy quyền con người. Đây là chủ trương nhất quán của Đảng ta được thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ; được cụ thể hóa trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, và gần đây nhất là trong Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”.

Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới

Chính sách xã hội là một trong những chính sách quan trọng ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Chính sách xã hội nhằm trợ giúp các bộ phận dân cư dễ bị tổn thương về mặt xã hội. Chính sách xã hội triển khai hiệu quả trong đời sống nhân dân sẽ là động lực thúc đẩy sự tiến bộ và công bằng xã hội, tạo động lực cho phát triển bền vững. Trong thế kỷ XXI chính sách xã hội không chỉ bao gồm chức năng quản lý xã hội, mà còn thể hiện mong muốn của Nhà nước hướng đến một xã hội công bằng, tiến bộ, văn minh.

Chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội có nội hàm rất rộng, được điều chỉnh bởi nhiều văn bản khác nhau trong nhiều lĩnh vực, như bảo hiểm xã hội, việc làm, thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, chính sách với người có công, trợ giúp xã hội...

Nhiều văn kiện của Đảng và Hiến pháp đã đề cập chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội.

Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 23-5-2018, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội” xác định “Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội để bảo hiểm xã hội thực sự là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân”.

Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã bổ sung, phát triển, làm rõ hơn nhận thức mới trong bối cảnh tình hình mới, yêu cầu, nhiệm vụ mới. Hội nghị đã ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24-11-2023 “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”, trong đó tiếp tục khẳng định: Chính sách xã hội là chính sách đối với con người, vì con người. Quan điểm này của Đảng đã mở rộng ra toàn bộ chính sách xã hội khác. Việc giải quyết các vấn đề xã hội từ Nhà nước đóng vai trò nòng cốt và chủ yếu chuyển sang Nhà nước đóng vai trò chủ đạo đi đôi phát huy vai trò quan trọng của doanh nghiệp, thị trường, các tổ chức xã hội và ý chí tự lực, tự cường của người dân như lời phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “từ bảo đảm và ổn định sang ổn định và phát triển; gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người, an ninh xã hội”(1).

Quyền được bảo đảm an sinh xã hội được hiến định tại Điều 34, Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành để cụ thể hóa Hiến pháp. Luật Bảo hiểm xã hội là văn bản quy phạm pháp luật quan trọng trong lĩnh vực an sinh xã hội, ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội và có tác động trực tiếp tới mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Nhiều văn bản pháp luật khác liên quan đến chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cũng cần được đề cập, như Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Người khuyết tật, Luật Việc làm, Luật Người cao tuổi, Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Giáo dục nghề nghiệp...

Thời gian qua, chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước về an sinh xã hội được triển khai và đi vào cuộc sống. Hiện nay, 63/63 tỉnh, thành phố đã kiện toàn ban chỉ đạo thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tới cấp xã (tương ứng với 10.595 xã đã thành lập ban chỉ đạo); 46/63 tỉnh, thành phố đưa chỉ tiêu về tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội, 60/63 tỉnh, thành phố đưa chỉ tiêu bao phủ bảo hiểm y tế vào chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; 22/63 tỉnh trích ngân sách hỗ trợ thêm cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; 62/63 tỉnh, thành phố trích ngân sách hỗ trợ cho người tham gia bảo hiểm y tế..

Kết quả cho thấy, Việt Nam đã thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách an sinh xã hội, bảo trợ xã hội; mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế; điều chỉnh lương hưu, trợ cấp xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều theo chuẩn mới giảm từ 4,03% năm 2022 xuống 2,93% năm 2023. Việt Nam tiếp tục là điểm sáng trong thực hiện các mục tiêu phát triển của Liên hợp quốc. Chất lượng giáo dục, đào tạo tiếp tục được nâng cao. Tập trung xử lý các vướng mắc để thực hiện tốt hơn công tác phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Tăng cường kết nối cung - cầu, phát triển thị trường lao động; tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị thấp hơn mục tiêu đề ra(2).

Về độ bao phủ, tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội của cả nước đạt khoảng 39,25% so với lực lượng lao động trong độ tuổi với 18,26 triệu người (đạt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, ngày 6-1-2023: Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023). Trong đó, khoảng 3,92% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện (với gần 1,83 triệu người) - vượt 1,42% so với mục tiêu giai đoạn đến năm 2025 tại Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 23-5-2018, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội”. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm thất nghiệp đạt gần 31,6% lực lượng lao động trong độ tuổi với 14,7 triệu người. Đặc biệt, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 93,35%, vượt 0,15% so với Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, với trên 93,3 triệu người tham gia, vượt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 68/2022/QH15, ngày 10-11-2022, của Quốc hội “Về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023”, tiệm cận mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Số tiền thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đạt 472.381 tỷ đồng, tăng 8,55% so với cùng kỳ năm 2022, đạt 101,41% dự toán Thủ tướng Chính phủ giao.

Trong dịp Tết Giáp Thìn năm 2024, toàn quốc đã hỗ trợ, tặng quà Tết cho trên 13,9 triệu lượt đối tượng với tổng kinh phí gần 7.762 tỷ đồng. Trung ương và địa phương đã hỗ trợ khoảng 17.736 tấn gạo cho người dân trong cả nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã trích Quỹ “Vì người nghèo” và chủ trì, phối hợp với các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc vận động đơn vị, doanh nghiệp, nhà hảo tâm thăm, tặng quà Tết cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, công nhân nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn với tổng số trên 8,84 triệu suất quà, trị giá trên 5.055 tỷ đồng (cùng kỳ năm 2023 vận động được 5,37 triệu suất quà trị giá khoảng 2.389 tỷ đồng). Các cấp hội chữ thập đỏ đã trợ giúp trên 1,52 triệu lượt người nghèo, người dân có hoàn cảnh khó khăn với tổng trị giá gần 1.036 tỷ đồng. Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã trao 274.206 thẻ bảo hiểm y tế, 18.353 sổ bảo hiểm xã hội tự nguyện cho người có hoàn cảnh khó khăn, người nghèo.

Hiện nay, một số chính sách, quy định về bảo hiểm xã hội đang được nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện, cải thiện hệ thống bảo hiểm thất nghiệp, giúp đỡ người lao động tiếp cận tốt hơn với việc làm, đặc biệt là trong thời kỳ có biến chuyển vĩ mô về năng lượng, dân số, công nghệ cũng như khủng hoảng toàn cầu thường xuyên, như đại dịch và chiến tranh...

Chương trình nghị sự phát triển quốc tế hiện nay nhấn mạnh sự cần thiết chuyển trọng tâm từ tăng trưởng kinh tế sang tăng trưởng bao trùm, trong đó nhấn mạnh đến sự phân phối và khả năng các nhóm dễ bị tổn thương tham gia vào quá trình tăng trưởng. Vì thế, chính sách an sinh xã hội cần được thúc đẩy để bảo đảm các nhóm dễ bị tổn thương (người khuyết tật; người dân tộc thiểu số; người nghèo,...) được hưởng lợi từ các chương trình an sinh xã hội khác nhau, cũng như có cơ hội được hưởng lợi từ sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Việt Nam, với tinh thần không ai bị bỏ lại phía sau. Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Chính sách xã hội phải hướng tới toàn dân, bảo đảm toàn diện, công bằng, hiện đại, bao trùm, bền vững; an sinh xã hội phải được chú trọng hơn nữa và bảo đảm sự linh hoạt, thích ứng với các tình huống xấu xảy ra trên diện rộng (như dịch COVID-19), bảo vệ toàn dân, không để ai bị bỏ lại phía sau”(3).

Để vượt qua trở ngại, điều quan trọng hàng đầu là phải tăng đầu tư cho an sinh xã hội. Điều này không chỉ có nghĩa là chỉ tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước và địa phương, mà còn phải tăng số lượng người lao động và doanh nghiệp đóng góp và tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Bởi vì đó chính là cốt lõi của nền an sinh - toàn xã hội cùng nhau đóng góp, tập hợp nguồn lực và tài chính để giúp đỡ người cần sự hỗ trợ nhất. Nhìn lại mấy năm qua, trong quá trình thực hiện chính sách an sinh xã hội, Đảng và Nhà nước đã triển khai quyết liệt, đồng bộ, toàn diện các giải pháp phòng, chống dịch COVID-19; trong đó, đã thực hiện các giải pháp “chưa từng có” để khống chế, đẩy lùi dịch bệnh, chuyển hướng kịp thời chiến lược phòng, chống dịch. Đại dịch COVID-19 được kiểm soát hiệu quả, là nền tảng để phục hồi nền kinh tế, sản xuất, kinh doanh, đưa đời sống người dân trở lại trạng thái bình thường mới. Có thể thấy, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành, triển khai kịp thời, hiệu quả Nghị quyết số 68/NQ-CP, ngày 1-7-2021, của Chính phủ “Về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19”, Nghị quyết số 116/NQ-CP, ngày 24-9-2021, của Chính phủ “Về chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp”, Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg, ngày 28-3-2022 “Quy định về việc thực hiện hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động” vượt qua khó khăn trong đại dịch. Tính đến ngày 30-6-2022, cả nước đã hỗ trợ cho 35.873.422 người lao động, người dân, 394.445 đơn vị sử dụng lao động và 508.391 hộ kinh doanh với tổng số tiền là 45.662,502 tỷ đồng; trong đó, Ngân hàng Chính sách xã hội đã giải ngân hơn 4.730 tỷ đồng cho gần 1,4 nghìn đơn vị sử dụng lao động để trả lương ngừng việc và trả lương phục hồi sản xuất cho hơn 1,2 triệu lượt người lao động.

Một số giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới

Năm 2023 có nhiều điểm sáng về ban hành và thực hiện chính sách an sinh xã hội. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 42/2023/NĐ-CP, ngày 29-6-2023 về “Điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng”. Theo đó, từ ngày 1-7-2023, tăng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng từ 12,5% đến 20,8% và tiếp tục điều chỉnh tăng thêm đối với người nghỉ hưu, hưởng bảo hiểm xã hội hằng tháng trước năm 1995 có mức hưởng dưới 3 triệu đồng/tháng. Nghị quyết số 42-NQ/TW đã cho thấy điểm mới về hướng tiếp cận (từ “bảo đảm và ổn định” sang “ổn định và phát triển”) và mở rộng phạm vi ra toàn bộ nhóm chính sách xã hội cho tất cả đối tượng trên nguyên tắc bảo đảm tính toàn dân, toàn diện(4) của chính sách xã hội. Bên cạnh đó là kết quả bước đầu chuyển đổi số trong hệ thống bảo hiểm xã hội thực hiện theo Quyết định số 06/QĐ-TTg, ngày 6-1-2022, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt “Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Qua triển khai thực hiện đề án, hiện nay, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đang quản lý hơn 91,74 triệu người tham gia, trong đó đã xác thực và đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đạt tỷ lệ 94%; 100% cơ sở khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế đã triển khai khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế bằng căn cước công dân gắn chip, đáp ứng yêu cầu tra cứu thông tin thẻ bảo hiểm y tế bằng số định danh cá nhân/căn cước công dân, với gần 50 triệu lượt tra cứu thông tin thẻ bảo hiểm y tế bằng số định danh cá nhân/căn cước công dân thành công phục vụ làm thủ tục khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Đồng thời, ngành bảo hiểm xã hội cũng tăng cường chi trả các chế độ bảo hiểm không dùng tiền mặt, đặc biệt là đã đưa vào triển khai ứng dụng “VssID - bảo hiểm xã hội số” trên nền tảng thiết bị di động. Hiện nay, có hơn 30 triệu tài khoản sử dụng ứng dụng, với hơn 4 triệu lượt sử dụng hình ảnh thẻ bảo hiểm y tế trên ứng dụng để đi khám chữa bệnh trên toàn quốc; các hoạt động tích hợp tài khoản VNeID với VssID; các dịch vụ công trực tuyến “Đăng ký tham gia đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện”; “Đăng ký đóng, cấp thẻ đối với người chỉ tham gia bảo hiểm y tế”; “Giải quyết hưởng bảo hiểm xã hội số một lần” (thuộc nhóm áp dụng thí điểm xác thực chữ ký số được tích hợp trong ứng dụng trên thiết bị di động để phục vụ cung cấp dịch vụ công trực tuyến) nhằm đơn giản hóa thành phần hồ sơ, cắt giảm thời gian, chi phí, tạo thuận lợi tối đa phục vụ người dân, doanh nghiệp khi giao dịch với cơ quan bảo hiểm xã hội; tạo nhiều thuận lợi cho người dân khi thực hiện các thủ tục về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp;... Quá trình chuyển đổi số trong thực hiện chính sách an sinh xã hội này cũng giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tạo thuận lợi và bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người dân.

Những năm qua, chính sách xã hội được xây dựng đã thực hiện khá hiệu quả việc ngăn chặn sự xuất hiện của các vấn đề xã hội (chức năng phòng ngừa), khắc phục các vấn đề xã hội (chức năng chữa bệnh) và thúc đẩy các hình thức phúc lợi (chức năng phát triển). Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng trong thực hiện thì hệ thống chính sách xã hội Việt Nam đang có một số thách thức lớn, như quá trình toàn cầu hóa, công nghiệp hóa, đô thị hóa, di dân tự do làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội, như vấn đề việc làm, nhà ở, phân tầng xã hội, tỷ lệ giảm nghèo có nơi chưa bền vững, rủi ro do biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan, như bão, hạn hán, giông, lốc, lũ ống, lũ quét, sạt lở đất..., tàn phá nghiêm trọng cây lương thực và tài sản của người dân; đồng thời, gây khó khăn trong quá trình trồng lúa và các cây lương thực, gia tăng chi phí cho cho sản xuất nông nghiệp, kéo theo hệ lụy về nghèo đói gia tăng. Năm 2023, nước ta đã xảy ra 1.135 trận thiên tai với 21/22 loại hình thiên tai; đã làm 166 người chết, mất tích, thiệt hại về kinh tế khoảng 8.228 tỷ đồng. Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo làm thay đổi phương thức sản xuất; vấn đề già hóa dân số nhanh đặt ra thách thức lớn trong bảo đảm an sinh xã hội cho người cao tuổi và nguồn cung lao động, tỷ lệ việc làm trong khu vực phi chính thức cao đang đòi hỏi chính sách lao động, việc làm, phát triển nguồn nhân lực toàn diện; vấn đề an ninh phi truyền thống đang tác động mạnh mẽ đến đời sống của người dân, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội, gia tăng tổn thương với nhóm yếu thế. Đồng thời, nhận thức về an sinh xã hội trong kỷ nguyên số của các cấp, các ngành còn hạn chế và mang tính hình thức. Trong xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, vai trò, vị trí của an sinh xã hội chưa được đặt ngang tầm với nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... Ngoài ra, mặc dù có những kết quả ban đầu, nhưng quá trình chuyển đổi số trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội vẫn còn một số hạn chế, như quá trình hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tổ chức thực hiện chính sách xã hội còn chậm, hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội, chăm sóc xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu về đổi mới theo hướng chuyên nghiệp hóa trong bối cảnh chuyển đổi số. Mặt khác, một bộ phận người hưởng chính sách an sinh xã hội chưa có điều kiện tiếp cận với quá trình chuyển đổi số (người cao tuổi, người nghèo ở vùng sâu, vùng xa, miền núi,...)

Nghị quyết số 42-NQ/TW xác định tầm nhìn đến năm 2045: Hệ thống chính sách xã hội phát triển toàn diện, bền vững, tiến bộ và công bằng, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất nước và xây dựng con người Việt Nam toàn diện. Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) cao trên thế giới. Bối cảnh mới và thực tiễn quản lý phát triển xã hội đã đặt ra yêu cầu tiếp tục rà soát, hoàn thiện, xây dựng chính sách an sinh xã hội toàn diện hơn, đa tầng hơn, hiện đại hơn, bao trùm và bền vững hơn, bảo đảm an sinh, an ninh, an dân, nhất là trước những “cú sốc” và nỗ lực phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để tầm nhìn trở thành hiện thực, từ góc độ chính sách xã hội, an sinh xã hội cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục mọi tầng lớp dân cư tham gia bảo hiểm xã hội. Bởi vì, về bản chất, bảo hiểm xã hội là hệ thống được thiết kế với mục tiêu mang lại cho người dân sự hỗ trợ và bảo vệ trước những biến cố nhất định trong cuộc đời, như tuổi già, ốm đau hay thất nghiệp. Sự hỗ trợ đó đến từ cả hệ thống nói chung, bao gồm tất cả người tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Đồng thời, cần mở rộng an sinh xã hội để bù đắp tác động kinh tế mà biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan có thể tác động đến những người dễ bị tổn thương nhất, cải thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ xã hội cơ bản tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực hiện chính sách xã hội. Hoàn thiện pháp luật an sinh số, hành lang pháp lý, thúc đẩy mọi tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia vào phát triển an sinh xã hội. Thúc đẩy sự phát triển của công nghệ trong lĩnh vực an sinh như một giải pháp để phát triển hệ thống an sinh xã hội hiệu quả.

Để bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cần tăng cường chăm sóc sức khỏe, xây dựng và mở rộng các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi với sự tham gia tích cực, chủ động của mọi thành phần xã hội và nâng cao năng lực quốc gia về chăm sóc người cao tuổi. Cần cải cách hệ thống hưu trí theo một lộ trình nhất định nhằm bảo đảm sự công bằng, ổn định, phát triển quỹ và phù hợp với tình hình phát triển thị trường tài chính. Ngoài việc bảo đảm mối quan hệ đóng - hưởng sát thực hơn thì việc chuyển đổi cơ chế hoạt động của hệ thống hưu trí sẽ góp phần cải thiện cân bằng quỹ hưu trí một cách đáng kể, đặc biệt là việc đầu tư quỹ hưu trí được chú trọng và hiệu quả hơn. Đồng thời, trợ cấp xã hội cho nhóm người cao tuổi có điều kiện khó khăn cũng cần được mở rộng và tiến tới một hệ thống phổ cập cho mọi người cao tuổi, đặc biệt là cần chú trọng hỗ trợ người cao tuổi ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa và phụ nữ cao tuổi. Mức hưởng và cách thức trợ cấp cần được xem xét cho phù hợp với điều kiện sống và sức khỏe của người cao tuổi. Việc xác định đối tượng cần được cải cách để tránh sai sót trong lập hồ sơ và phê duyệt đối tượng được hưởng.

Trong chính sách xã hội và an sinh xã hội cần hướng đến bảo đảm ngày càng tốt hơn bình đẳng giới, bởi phụ nữ thường làm việc chăm chỉ và có năng lực ngang bằng với nam giới, nhưng dường như vẫn có xu hướng bị trả lương thấp hơn. Tính trên toàn cầu, tiền lương cho phụ nữ chỉ bằng 77% so với nam giới. Do đó, các hệ thống an sinh xã hội bảo đảm khả năng tiếp cận công bằng cũng như hỗ trợ phụ nữ và trẻ em gái nghèo là vô cùng cần thiết. Đồng thời, chú # trọng giải pháp tài chính sáng tạo giúp phụ nữ và trẻ em gái thoát nghèo. Bảo đảm nguồn lực công được phân bổ và chi tiêu phù hợp với nhu cầu của phụ nữ và trẻ em gái có thể mang lại khoản hỗ trợ nhà ở cho khoảng 230.000 hộ nghèo ở khu vực nông thôn vào năm 2025 theo mụ tiêu đề ra.

Một trong những yếu tố quan trọng nhất của bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là việc tạo ra cơ hội công bằng và bình đẳng cho mọi người. Điều này bao gồm việc xây dựng một hệ thống giáo dục và đào tạo chất lượng, cung cấp dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe đồng đều, bảo đảm việc làm và thu nhập ổn định cho mọi cá nhân. Bằng cách này, mỗi người dân đều có cơ hội để phát triển tiềm năng của mình và đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Công tác phòng ngừa tội phạm, bạo lực gia đình và bảo vệ quyền lợi của người lao động là các biện pháp quan trọng để bảo vệ an sinh và phúc lợi của cộng đồng.

Chính sách quản lý xã hội trước hết phải nhằm mục đích tăng cường sự ổn định chính trị - xã hội, từ đó tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Chính sách an sinh xã hội là cho con người, vì con người, có vị trí, vai trò quan trọng trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội là tiền đề cho phát triển con người của quốc gia để thực hiện quan điểm xuyên suốt của Đảng, Nhà nước: Con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, là động lực, là nguồn lực phát triển. Do đó, trong mọi hoàn cảnh phải làm tốt công tác an sinh xã hội, nhất là thời điểm có nhiều tác động tới người nghèo, đối tượng yếu thế, người dân vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo./

Tạp chí Cộng sản

Address

Khóm 1, Thị Trấn Năm Căn, Huyện Năm Căn
Cà Mau

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Trang Tin Năm Căn posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Trang Tin Năm Căn:

Share

Nearby media companies


Other Digital creator in Cà Mau

Show All