21/04/2024
KINH ĐỊA MẪU , Mẹ đã truyền răn dạy các con phàm trần :
Thiên Địa lập âm lai dương khứ
Khí thần giao gìn giữ điển linh
Đất Trời do Tạo Hóa sinh
Pháp luân thuần chuyển siêu hình căn nguyên
Chính Mẹ tạo tôi hiền chúa thánh
Phủ điển linh chơn tánh tâm thanh
Chẳng ngừng hóa hóa sanh sanh
Thiên can thường chuyển vận hành địa chi..
Vua Thần nông phi tài ngũ cốc.
Sắc lệnh gieo chậu ngọc khắp nơi.
Đó là hạt giống của trời.
Sinh ra lúa gạo giúp đời an khang...
Lưu truyền cơm áo chốn trần
Để cho người thế tâm thân thanh nhàn
Vũ trụ do Mẫu Hoàng xuất phát
Mẫu tạo ra Bồ Tát, Thần Tiên
Thượng tầng bao phủ điển thiêng
Chẳng rời xa khỏi Mẫu hiền dưỡng sanh
NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH .
Từ khi Bàn Cổ khai thiên tịch địa, Nữ Oa tạo ra con người, để nâng cao kỹ năng, sự hiểu biết và khả năng thích ứng của con người đối với vũ trụ, trái đất và thế giới tự nhiên, Thiên thượng đã phái rất nhiều vị Thần xuống thế gian để hướng dẫn cho con người những kiến thức và kỹ năng sống cơ bản, mở ra thời kỳ cổ đại khi Thần và con người cùng tồn tại. Thần Nông thị là một trong những vị Thần đã được phái xuống thế gian. Ông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ.
Tam Hoàng trong truyền thuyết là "Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng", họ cũng lần lượt là Nữ Oa, Phục Hy và Thần Nông. Cả ba được tôn vinh là "Nữ Oa thị, Phục Hy thị, Thần Nông thị", chữ Thị có ý nghĩa nguyên thủy là ý chỉ của Thần, họ đều có pháp lực Thần thông.
Về Thần Nông thị, "Sử Ký - Bổ Tam Hoàng bản kỷ" có chép, Viêm Đế Thần Nông thị họ Khương, mẹ của ông là Nữ Đăng, là con gái của Hữu Oa thị, là vợ của Thiếu Điền, vì cảm ứng khí của Thần Long mà sinh ra Viêm Đế.
"Xuân Thu Vĩ - Nguyên mệnh bao" có chép rằng, Thần Nông có “mặt người dung nhan rồng", sinh ra đã có bụng trong suốt như thủy tinh, lục phủ ngũ tạng đều có thể thấy rõ ràng. Ông sinh ra ba canh giờ đã có thể nói chuyện, năm ngày có thể đi lại, bảy ngày răng đã mọc đầy đủ.
Ông chặt đẽo gọt gỗ làm lưỡi cày, uốn gỗ làm cán cày. Loại nông cụ này giúp cho việc cày bừa, làm cỏ của dân chúng được thuận tiện. Ông mang đồ cày cấy dạy cho dân chúng trong thiên hạ, nên được gọi là Thần Nông thị. Thần Nông thị đặt ra lễ tế chạp, dùng cái roi màu đỏ để đập cây cỏ, đồng thời nếm thử để biết tính chất bình, độc, hàn, ôn của từng loại, từ đó mới có thuốc chữa bệnh. Ông lại làm ra đàn sắt có năm dây, dạy dân họp chợ ban trưa, trao đổi hàng hóa xong thì về. Thần Nông thị còn xếp chồng Bát quái lên nhau diễn hóa thành 64 quẻ.
Thần Nông thị ban đầu đóng đô ở đất Trần, sau đó dời đến Khúc Phụ. Ông tại vị 120 năm thì qua đời, được an táng ở Trường Sa.
Thần Nông nếm bách thảo
Thời kỳ viễn cổ, cuộc sống của con người rất khó khăn. Khi nhiễm các loại bệnh tật, con người không biết làm thế nào để chữa trị, bởi vậy có rất nhiều người chỉ có thể chờ chết. Viêm Đế nhìn thấy những điều ấy, cảm thấy rất đau lòng. Ông quyết định phải tìm ra phương pháp chữa bệnh. Trong "Sử ký. Bổ Tam Hoàng bản ký" có chép: "Thần Nông thị làm lễ tế chạp, dùng roi đỏ quất cây cỏ, nếm bách thảo, mới bắt đầu có thuốc trị bệnh".
Thần Nông đi khắp các núi Tam sơn Ngũ nhạc, thu thập kỳ hoa dị thảo trong thiên hạ, rồi dùng roi đỏ quất từng loại, dược thảo sau khi bị đập mạnh, dược tính của chúng đều được thể hiện ra, dù là có độc hay không độc, tính hàn hay tính nóng, ông đều biết được. Để có thể tìm hiểu thêm dược tính và công năng của các loại thảo dược, Thần Nông đã tự mình nếm hàng trăm loại thảo dược. Ông lấy thân mình để thử thuốc.
Mỗi ngày Thần Nông đều kiên trì nếm rất nhiều loại thảo dược, sau đó ghi chép lại dược tính của từng loại, ghi chép cả tính vị và chủng loại của chúng, mỗi loại phù hợp để chữa loại bệnh nào. Để nhanh chóng hiểu được dược tính của các loại thảo dược, ông làm việc cả ngày lẫn đêm, từ ngày này qua ngày khác. Hầu như mỗi ngày, Thần Nông đều phải nếm cả trăm loại thảo dược, thậm chí có lúc "một ngày ông gặp phải 70 loại độc".
Một điều may mắn là thân thể của ông trong suốt, từ bên ngoài có thể nhìn thấy rõ lục phủ ngũ tạng, vì vậy ông mới có thể biết được bộ phận nào trúng độc, lập tức có thể tìm ra phương pháp giải độc.
Có lần ông nếm lá non của một loại cây có lá xanh hoa trắng, thì phát hiện loại thực vật này từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, lưu động tẩy rửa khắp nơi trong bụng, giống như trong bụng đang được kiểm tra, nên ông gọi loại lá này là “tra”, người đời sau gọi thành “trà”.
Thần Nông quanh năm suốt tháng phải trèo non lội suối, phải nếm trăm loại thảo dược, mỗi ngày đều trúng vài loại độc, ông đều dùng trà để giải độc.
Cứ như vậy, Thần Nông mạo hiểm hết lần này đến lần khác. Ông liên tục nếm các loại thảo dược, cuối cùng cũng biết công năng của phần lớn các loại thảo dược. Ông đã tổng kết rất nhiều kinh nghiệm dùng thuốc, thuốc nào có thể trị bệnh gì. Cuối cùng Thần Nông thị tìm ra được 365 loại dược liệu, có thể chữa bệnh. Ông đến thế gian là để xây dựng một nền tảng y học tương đối hoàn chỉnh cho con người. Sự phát triển của Đông y của mấy ngàn năm sau, đều dựa trên cơ sở của cuốn "Thần Nông bản thảo kinh".
"Thần Nông bản thảo kinh" chia các loại thảo dược thành ba loại thượng phẩm, trung phẩm và hạ phẩm. Thảo dược thượng phẩm có 120 loại, có thể dùng để dưỡng mệnh, làm cho thân thể nhẹ nhàng, kéo dài tuổi thọ. Thảo dược trung phẩm có 120 loại, có tác dụng dưỡng sinh, bổ hư, ích khí. Thảo dược hạ phẩm có 125 loại có thể dùng để trị bệnh .
Truyền thuyết Thần Nông giá
Truyền thuyết kể rằng vì để tìm kiếm thảo dược, Thần Nông mang theo một nhóm thần dân, khởi hành từ quê hương là Lịch Sơn, Tùy Châu, đi về hướng núi lớn ở phía Tây Bắc. Họ đi suốt bảy bảy bốn mươi chín ngày, trải qua muôn vàn gian khổ, phải liên tục đánh đuổi những đàn sói, hổ, báo, rắn rết, đi qua hết đỉnh núi này đến đỉnh núi khác, phải vượt qua từ vực thẳm này đến vực thẳm khác. Họ đến một quả núi mọc đầy những loại kỳ hoa dị thảo, đi từ xa đã có thể ngửi thấy mùi thơm. Thần Nông đứng ở chân núi nhìn lên. Làm sao có thể trèo lên trên được?
Sau đó, ông nhìn thấy một vài con khỉ đang bò dọc theo những dây leo cổ thụ, và khúc gỗ khô nằm trên lưng chừng vách đá. Thần Nông suy nghĩ một lúc liền nảy ra một ý tưởng, sau đó ông gọi thần dân của mình đến, bảo họ chặt cọc gỗ, chặt dây leo, đóng thành khung dựa vào vách đá, mỗi ngày cũng bắc thêm một tầng, bất kể thời tiết thế nào mọi người vẫn kiên trì làm việc, phải mất cả năm trời để dựng được ba trăm sáu mươi tầng rồi mới có thể leo lên đến đỉnh núi. Tương truyền, giàn giáo được người dân sử dụng để xây dựng ở các tòa nhà ngày nay là học từ phương pháp của Thần Nông.
Thần Nông đem theo thần dân, trèo lên giá gỗ, lên đỉnh núi. Ban ngày, ông dẫn thần dân của mình lên núi để thử các loại thảo dược, ban đêm ông đốt lửa và ghi lại chi tiết kinh nghiệm nếm các loại thảo mộc trong ngày: loại cỏ nào đắng, loại nào nóng, loại nào mát, loại nào lót dạ được và loại nào có thể chữa lành bệnh tật được, tất cả đều được viết ra rõ ràng.
Thần Nông đi khắp từng dãy núi. Ông nếm thấy lúa mì, gạo, kê và cao lương có thể lót dạ được, vì vậy ông đã bảo thần dân của mình mang hạt giống về để họ trồng trọt, đó cũng chính là ngũ cốc của sau này. Ông nếm hết các loại thảo mộc, phân loại độc dược và thảo dược, phát hiện được 365 loại thảo dược, có thể trị hơn một trăm loại bệnh, liền viết thành "Thần Nông bản thảo", để thần dân của mình đem về chữa bệnh cho mọi người trong thiên hạ.
Lúc Thần Nông chuẩn bị xuống núi, ông nhìn xung quanh, mới phát hiện ra những giá gỗ dựa vào vách núi không thấy đâu nữa. Thì ra những chiếc cọc gỗ dựng dưới đất đã bén rễ, đâm chồi nảy lộc trong mưa, năm dài tháng rộng, đã mọc lên thành một cánh rừng bạt ngàn. Thần Nông đang gặp trong tình thế khó khăn không biết làm sao, đột nhiên trên không trung có một đám hạc trắng bay tới, đưa ông và một số thần dân, lên Thiên đình.
Để tưởng nhớ việc Thần Nông nếm bách thảo, có công tạo phúc cho nhân gian, người đã gọi khu rừng rộng lớn này là "Thần Nông giá".
Bắt đầu trồng ngũ cốc, mở ra nền nông nghiệp
Nhân loại dần dần sinh sôi đông lên, thức ăn thu được từ việc săn bắn không đủ để thỏa mãn nhu cầu cuộc sống của con người, Thần Nông đã tìm ra được một loại lương thực khác. Nghe nói rằng, một ngày nọ lúa từ trên trời rơi xuống (có thuyết nói rằng chim Đan Tước ngậm bông lúa đến), Thần Nông liền nếm thử, ông cảm thấy rất thơm. Thần Nông liền ra lệnh cho dân chúng đem lúa đi trồng rồi thu hoạch, sau đó gieo ở nơi có đất hoàng thổ đã được khai hoang, dẫn nước vào để tưới tiêu, khiến cho ngũ cốc phát triển thuận lợi, từ đó dân chúng có được đầy đủ lương thực.
Còn có một truyền thuyết khác. Một ngày nọ, khi Thần Nông đang trên đường tìm kiếm lương thực, ông cảm thấy mệt nên bèn nằm ngủ bên một gốc cây. Trong mơ, ông được nữ Thần chỉ điểm, nên sau khi tỉnh lại ông đến một hang động gần đó, tìm được một loại cây có thể làm thức ăn cho con người. Thần Nông đem cây này về, thử trồng một năm trên ruộng nước, sau mùa thu quả nhiên thu hoạch được những hạt lúa chín vàng. Ông đặt tên cho loại hạt này là thóc, gọi cây non là mạ. Sau đó ông đem phương pháp gieo trồng lúa dạy cho người dân.
Để việc trồng trọt được thuận tiện hơn, Thần Nông thị đã "đẽo gỗ làm cuốc, chặt gỗ làm cày" (Dịch - Hệ từ). Ông đã phát minh ra những nông cụ như cái cày, cái cuốc, v.v...nâng cao hiệu quả trồng trọt. Cũng vào thời đại của Thần Nông, xã hội bắt đầu tiến vào thời kỳ xã hội bộ lạc nông nghiệp. Để cảm tạ Thần Nông đã tạo phúc cho nhân loại, người dân còn tôn kính gọi ông là Thần Nông Nghiệp.
Dạy dân họp chợ, nuôi tằm, chế tạo đồ gốm
Ngoài việc "bắt đầu trồng ngũ cốc, để làm lương thực; chế tạo cày cuốc để thuận lợi cho việc làm ruộng; nếm trăm loại thảo dược, để điều trị bệnh cho dân chúng" ra, Thần Nông thị còn "kết sợi thành vải, để dân chúng chịu được lạnh giá, đúc ra đồ gốm, để dân làm đồ tích trữ, đẽo gọt cây ngô đồng làm đàn, để dân chúng vui vẻ, dạy dân họp chợ, để thuận lợi cho cuộc sống của người dân; vót gỗ làm mũi tên, để dân chúng an tâm cư ngụ".
Ông đã giúp người dân chuyển từ cuộc sống du mục thành cuộc sống định cư, từ cuộc sống đánh cá, săn bắt, hái lượm, trở thành cuộc sống canh tác chăn nuôi, chuyển từ thời đại đồ đá cũ sang thời đại đồ đá mới.
Thần Nông dạy dân nuôi tằm nhả tơ, lấy sợi dệt vải. Từ đó con người mới có quần áo, mới có thể chịu được với khí hậu lạnh giá.
Trước khi phát minh đồ gốm, khi con người chế biến thức ăn chỉ có thể dùng lửa để nướng. Khi có đồ gốm, con người đã có thể nấu chín đồ ăn, đồng thời còn có thể dự trữ. Việc sử dụng đồ gốm đã giúp cải thiện điều kiện sống của con người.
Thần Nông còn tạo ra đàn sắt năm dây để làm dân chúng vui vẻ. Theo "Thế bản - Hạ thiên" có chép: “Thần Nông phát minh ra nhạc cụ, ông dùng gỗ ngô đồng làm đàn, kết tơ làm dây. Loại đàn này sau được gọi là đàn Thần Nông. Đàn Thần Nông "dài ba thước sáu tấc năm phân, bên trên có năm dây, gọi là Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ".
Âm thanh do đàn Thần Nông phát ra thể hiện đức của Trời Đất, sự hài hòa của Thần Nông, có thể làm cho tình cảm dân chúng vui vẻ.
Theo "Chu dịch - Hệ từ hạ" có chép Thần Nông "buổi trưa họp chợ, dạy dân chúng trong thiên hạ, tập hợp hàng hóa trong thiên hạ, giao dịch xong rồi về, ai nấy đều có chỗ của mình".
Thần Nông dạy dân chúng họp chợ vào buổi trưa, khuyến khích dân chúng trao đổi hàng hóa cho nhau, tổ chức họp chợ, khởi xướng việc giao thương, để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, tạo ra dòng chảy giao lưu buôn bán.
Thần Nông dùng gỗ làm ra cung tên để phòng ngừa sự tấn công của các loại dã thú, cũng như sự xâm phạm của những bộ tộc khác.
Thần Nông là người khai sáng cho văn hóa nông nghiệp. Ông đã hoàn thành được sứ mệnh dạy cho con người cách ăn ở, đi lại và đã có những cống hiến to lớn cho nền văn minh nhân loại.
NHỮNG VÙNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP có thờ cúng , tưởng nhớ Ngài, thì sẽ được Ngài ban tài lộc, phù hộ cho Mưa thuận, gió hoà, hoa quả, mùa màng ruộng lúa được trúng mùa bội thu. Đó cũng là truyền thống "Uống Nước Nhớ Nguồn " của dân tộc nước Nam ta đã lưu truyền từ bao đời nay.
NAM MÔ ĐỨC VUA THẦN NÔNG GIA HỘ CHÚNG SANH .