22/03/2024
TÂM NHÃN: TUỆ SỸ, THIỀN ĐỊNH PHẬT GIÁO VÀ THÀNH DUY THỨC LUẬN
Có vị Phật tử hỏi và muốn tôi giải thích “Pháp tu gia hành vị trong Duy thức” và “quá trình công phu noãn, đỉnh, nhẫn và thế đệ nhất”.
Tôi trích dẫn trong Thành duy thức luận (成唯識論卷9, T31n1585, p. 49a25) giải thích như sau:
“Bồ-tát trước tiên ở trong vô số kiếp thứ nhất khéo léo hoàn bị các tư lương phước đức và trí tuệ, đã viên mãn thuận giải thoát phần, với mục đích nhập kiến đạo, an trụ trong duy thức tính, lại tu tập gia hành với noãn, đỉnh, nhẫn, thế đệ nhất, để trấn áp và đoạn trừ hai thủ. Bốn gia hành này (noãn, đỉnh, nhẫn, thế đệ nhất) gọi chung là thuận quyết trạch phần, vì thuận dẫn hướng đến sự quyết trạch sự chân thật. Do gần với kiến đạo nên gọi là gia hành.”
Trong văn luận nói đến vị Bồ-tát trải qua vô số kiếp… để có tư lương phước đức, trí tuệ, đó chính là đức Phật Thích-ca, trước khi Ngài thành Phật hành hạnh Bồ-tát.
Thật sự tôi rất ngần ngại để trả lời hay giải thích tường tận giáo nghĩa trên, vì tất cả đều thể nghiệm qua việc tu chứng nhưng tôi cũng mạo muội thích nghĩa một vài từ ngữ trong quá trình tu trong “Gia hành vị”. Vì sao nói 4 gia hành: noãn, đỉnh, nhẫn, thế đệ nhất là thuận quyết trạch phần. Trong Câu-xá luận (阿毘達磨俱舍論卷18, T29n1558, p. 98a10) nói: Có ba loại thiện bằng phân biệt về phước nghiệp sự:
1. Thuận phước phần (puṇya-bhāgiya) là nghiệp dẫn đến dị thục.
2. Thuận giải thoát phần (mokṣabhāgīya), khi mà loại thiện này đã phát sinh, người ấy quyết định có pháp Niết-bàn. Người nào sau khi nghe luận thuyết soi sáng sự nguy hại của sinh tử, vô ngã và phẩm đức của Niết-bàn, tức thì lông tóc dựng đứng, nước mắt chảy, quả quyết người này có thiện căn thuận giải thoát phần. Cũng như, do vì vào mùa mưa trong sân đập lúa có chồi non nảy mầm, biết rằng trong lỗ hổng nơi sân nhất định đã có hạt giống.
3. Thuận quyết trạch phần (nirvedhabhāgīyam), đó là noãn, đỉnh, nhẫn, thế đệ nhất.
Cũng trong Câu-xá quyển 23 giải thích: Quyết là quyết đoán; trạch là lựa chọn (niścito vedho nirvedhaḥ). Quyết đoán giản trạch, đó chính là Thánh đạo. Vì do bởi đó mà đoạn trừ nghi hoặc, và do phân tích các Thánh đế rằng “Đây là khổ”, cho đến, “Đây là đạo”. Trước giai đoạn hiện quán Thánh đế, hành giả quán sát bốn Thánh đế đến với các hành tướng: vô thường, khổ, không, vô ngã v.v. Giai đoạn này Hữu bộ gọi là Thuận quyết trạch phần (nirvedhabhāgīya).
Quá trình (thiền) bắt đầu từ kiểm soát hơi thở… cho đến đạt được trình độ chỉ (śamatha), bấy giờ bắt đầu quán sát bản chất của tồn tại với các yếu tính vô thường, khổ, không, vô ngã. Quán sát cho đến khi thuần thục, hơi ấm (uṣmagata) sẽ phát sinh. Tiếp tục tu tập, với sự tiến bộ đáng kể, hành giả đạt đến mức gọi là đỉnh (mūrdhan, đỉnh đầu)… quá trình phát sinh hơi ấm và đỉnh đầu là do trí tuệ của Thánh đạo chớm phát sinh… Nói đỉnh đầu, vì đây là trình độ thế tục trí cao nhất. Nếu nhìn từ thực tế hành trì, những người có kinh nghiệm tu thiền đều biết rằng, theo một phương pháp nhất định, sau một thời gian tu tập, nếu có tiến bộ, hơi ấm ấy sẽ phát sinh dưới rốn, nơi mà Trung y gọi là huyệt đan điền. Nói đến “noãn” và “đỉnh” là quá trình quán chiếu phá trừ y nơi ý thức cấu trúc phân biệt “khách thể” (năng thủ - grāhakagrāha) và “chủ thể” (sở thủ - grāhygrāha), đạt đến tính Không, vắng mặt hai thứ này. Nói cho dễ hiểu là nhận thức của phàm phu luôn bị bẻ cong thực tại, tức thức thứ tám (a-lại-da) nhận thức tập khí sai lầm như là tự tính của những cái bị biến kế sở chấp.
Nếu tôi tiếp tục thuyết minh thì mọi người sẽ tiếp tục không hiểu gì cả. Tôi đi sang một câu chuyện khác. Những năm thầy Tuệ Sỹ an cư ở suối Thạch Khê, Diên Lâm, Diên Khánh (Khánh Hòa, Việt Nam). Suốt ba tháng an cư, khóa tu của thầy là hành thiền. Thầy tĩnh tọa ngày hai lần, sáng sớm từ 3h đến 4h, chiều từ 17h đến 19h. Sau giờ hành thiền tối, mấy thầy trò đối ẩm đàm đạo. Có lần thầy kể, thời gian thầy bị kết án tử hình, thầy bị giam gần các phòng giam của các tử tù khác. Thầy nói rằng, những tử tù này có một số bình nhật họ là tướng cướp giết người không gớm tay, nhưng khi nghe tiếng mở cửa, chuẩn bị đưa họ ra pháp trường, tất cả đều ngất ngay trong phòng giam. Cái bạo gan giết người là một lẽ, còn xem nhẹ cái chết tợ như lông hồng lại là một chuyện khác. Như một người muốn bơi giỏi, tất nhiên bạn phải ở trong hồ nước, hay lội ngay dưới biển; không bao giờ có chuyện bạn đứng trên bờ nghe lý thuyết của giáo viên giảng rồi có thể bơi lội thành thạo.
Hai tác phẩm Thiền định Phật giáo và Thành duy thức luận, thầy Tuệ Sỹ dịch và viết không phải thể hiện của một người có tri kiến uyên bác, mà “linh hồn” của một vị thầy thể nghiệm tu tập được phơi bày ra văn tự. Tôi đã giới thiệu hai tác phẩm này cho vị đặt câu hỏi với tôi. Song, những ai sở hữu tác phẩm ấy hãy đọc như mình nhai thức ăn, rồi kiết già tĩnh tọa nhiều giờ, nhiều ngày… Ngồi như thầy Tuệ Sỹ đã ngồi. Thầy ngồi ở trong tù, ngồi đến khi ra tù, ngồi trên gường bệnh, ngồi đến lúc không thể ngồi được nữa… Nếu thầy có ở “Thuận quyết trạch phần” thì chỉ có thầy mới biết.
Ngày 13 tháng 2, Giáp thìn
Tâm Nhãn
________________________
* https://phatviet.info/tue-sy-thien-phat-giao-va-thien-chua-giao/