Đất và người Gia Lai

Đất và người Gia Lai Trang tin tức và sự kiện

Nhân Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 – 22/12/2024) và 35 năm Ngày hội Quốc phòng to...
19/12/2024

Nhân Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 – 22/12/2024) và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 – 22/12/2024), sáng nay (19/12), UBND tỉnh Gia Lai đã long trọng tổ chức gặp mặt cán bộ quân đội cao cấp đã nghỉ hưu, nghỉ công tác đang sinh sống trên địa bàn tỉnh.
Dự buổi gặp mặt có các đồng chí: Nguyễn Ngọc Lương – Phó Bí thư Tỉnh ủy, Ayun H’Bút – Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh; Nguyễn Thị Thanh Lịch – Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh. Đặc biệt, dự buổi gặp mặt có Mẹ Việt Nam Anh Hùng Lê Thị Diện, các Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cùng các cán bộ quân đội cao cấp quân đội đã nghỉ hưu, nghỉ công tác đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Gia Lai.

19/12/2024

Giải quyết điểm nghẽn: Thể chế - Hạ tầng - Nhân lực. Thực hiện khát vọng vươn mình của Việt Nam

19/12/2024
12/12/2024

Từ tiền thân là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với 34 chiến sĩ đầu tiên trong ngày thành lập, 22 tháng 12 năm 1944. Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, được sự quan tâm lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quân đội nhân dân Việt Nam, một đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành. Hoàn thành tốt chức năng, đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, gắn bó máu thịt với nhân dân, được bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.
Ý thức sâu sắc, vinh dự và trách nhiệm lớn lao trước Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Toàn quân nguyện tiếp tục đoàn kết, phát huy truyền thống, phẩm chất tốt đẹp bộ đội Cụ Hồ. Tiếp tục đổi mới sáng tạo, không ngừng nỗ lực phấn đấu, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quân sự quốc phòng. Giữ vững vai trò là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống, xứng đáng là Quân đội anh hùng của dân tộc anh hùng.

🚨 KHỞI TỐ NHÓM ĐỐI TƯỢNG LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA LỰC LƯỢNG CÔNG AN, QUÂN ĐỘI.Các đối tượng bị khởi tố gồm: Đàm Đìn...
26/11/2024

🚨 KHỞI TỐ NHÓM ĐỐI TƯỢNG LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA LỰC LƯỢNG CÔNG AN, QUÂN ĐỘI.
Các đối tượng bị khởi tố gồm: Đàm Đình Phú (SN: 1993; HKTT: Tân Minh, Sóc Sơn, Hà Nội), Đoàn Duy Thái (SN: 1997; HKTT: Đại Sơn, Tứ Ký, Hải Dương), Nguyễn Ngọc Lân (SN: 1989; HKTT: Đông Ngạc, Bắc Từ Liêm, Hà Nội), Đỗ Văn Hoàng (SN: 1998; HKTT: Trung Giã, Sóc Sơn, Hà Nội), Phạm Văn Quý (SN: 1993; HKTT: Trực Đại, Trực Ninh, Nam Định) và Nguyễn Hữu Nam (SN: 1994; HKTT: Tiên Phong, Ba Vì, Hà Nội) cùng về hành vi Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức.

Tại cơ quan Công an, các đối tượng khai nhận từ đầu tháng 7/2024, thông qua hội nhóm “Hỗ trợ vay vốn nợ xấu” trên mạng xã hội Facebook, Phú quen một đối tượng có thể làm giả được các giấy tờ giả trong ngành Công an và Quân đội để sử dụng vay tiền tại các ngân hàng, mục đích là để chiếm đoạt số tiền vay.

Sau đó, Phú đã đăng bài trên mạng xã hội nhận làm thủ tục vay tiền đối với khách đang nợ xấu, “bao bùng”. Sau khi có khách đặt hàng, Phú sẽ yêu cầu khách cung cấp hình ảnh chân dung để làm giả các loại giấy tờ như Căn cước công dân, Giấy chứng minh Công an nhân dân, Thẻ sĩ quan quân đội. Sau khi các giấy tờ được làm giả hoàn tất, các đối tượng sẽ liên hệ nhân viên ngân hàng để làm thủ tục vay tiền.

Đến khoảng cuối tháng 8/2024, Phú đã thuê một căn nhà mở văn phòng tư vấn cho vay tại Bắc Từ Liêm, Hà Nội và lôi kéo thêm Đoàn Duy Thái (là người trước đó đã được Phú làm hồ sơ vay tiền) về làm cùng.

Thái có nhiệm vụ soạn thảo các văn bản như giấy xác nhận đơn vị công tác, sửa Quyết định nâng lương thăng cấp bậc hàm, đặt làm các biển tên trong ngành Công an và Quân đội và tìm khách hàng cần vay tiền để làm giả hồ sơ.

Phú và Thái thay nhau ký giả các chữ ký của người có thẩm quyền. Quá trình thực hiện hành vi Phú cùng đồng bọn đã làm giả và sử dụng 07 bộ hồ sơ để vay tiền tại ngân hàng.

Hiện Cơ quan CSĐT Công an quận Đống Đa (Hà Nội) đang tiếp tục điều tra đồng thời củng cố tài liệu làm rõ hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các đối tượng để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC Là thông điệp của Tổng Bí thư Tô Lâm trong một số bài viết, bài phát biểu quan trọng tro...
22/11/2024

KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC
Là thông điệp của Tổng Bí thư Tô Lâm trong một số bài viết, bài phát biểu quan trọng trong những sự kiện đặc biệt của đất nước thời gian qua. Thông điệp của người đứng đầu Đảng như lời hiệu triệu, thúc giục tinh thần hành động, đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm để thực hiện khát vọng xây dựng nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1. Kỷ nguyên được đánh dấu bởi một sự kiện lớn, mở đầu cho thời kỳ phát triển mới của đất nước, của dân tộc. Ngày 19-8-1945 được ghi vào lịch sử như một ngày mở đầu kỷ nguyên mới, kỷ nguyên đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam - Kỷ nguyên Độc lập dân tộc: giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Kỷ nguyên đánh dấu bước nhảy vọt của đất nước ta. Lần đầu tiên trong lịch sử, một Nhà nước công nông ra đời ở Việt Nam. Nhân dân Việt Nam trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa và nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ.
Năm 1986, từ Đại hội VI, đất nước ta bước vào Kỷ nguyên thứ hai - Kỷ nguyên Đổi mới. “Đổi mới hay là chết” - Đó là mệnh lệnh của cuộc sống. Sau 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử... Đất nước ta đã hoàn thành cơ bản những nhiệm vụ của việc chuẩn bị những tiền đề cho dân tộc bước vào kỷ nguyên mới.
Hiện nay đang là khởi điểm lịch sử mới, đất nước bước vào Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Có thể đặt tên Kỷ nguyên thứ ba của dân tộc là Kỷ nguyên Văn minh hiện đại.
Về việc này, Đảng đã có định hướng, chủ trương, đường lối ngày càng đầy đủ trong những năm qua. Nhà nước cũng đã bắt tay vào xây dựng các qui hoạch, kế hoạch, cơ chế tổng thể cho sự phát triển khi Việt Nam tròn 100 tuổi.
Sắp tới, Đại hội XIV của Đảng có tầm vóc to lớn, diễn ra vào thời điểm có ý nghĩa lịch sử, một dấu mốc quan trọng trên con đường phát triển của dân tộc ta: đất nước ta sau 50 năm thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội; trải qua 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 35 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), đặc biệt là đánh giá, kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ trong 5 năm tới (2026 - 2030), tiếp tục thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021 - 2030)...
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới là tiền đề để dân tộc Việt Nam tin tưởng vào tương lai ở phía trước. Sau gần 4 thập kỷ từ khi Đổi mới và mở cửa (từ năm 1986 đến nay), quy mô nền kinh tế Việt Nam đã tăng 96 lần. Mạng lưới hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam ký kết và triển khai với hơn 60 quốc gia và nền kinh tế lớn đã góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu thế giới về thu hút đầu tư nước ngoài và về quy mô thương mại.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, mà gần đây nhất là với Malawi, nâng cấp, nâng tầm các mối quan hệ với mạng lưới 31 khuôn khổ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện, trong đó có toàn bộ các nước là Ủy viên Thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc và các nền kinh tế Nhóm G7.
Nhưng đất nước cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức: sự phát triển đất nước theo chiều rộng đã tới hạn, cần phải chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu; bốn nguy cơ mà Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII đã xác định vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp hơn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tư diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cơ hội chính trị, “lợi ích nhóm” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao là một nguy cơ gây mất ổn định chính trị - xã hội, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ…
Bên cạnh khó khăn, thách thức, thì đồng thời lại có nhiều thuận lợi và cơ hội mới: Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm thay đổi căn bản mọi mặt đời sống xã hội. Việt Nam với dân số trẻ, năng động và sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số, đang trở thành một thị trường đầy tiềm năng.
2. Kỷ nguyên mới sẽ là kỷ nguyên Việt Nam tập trung thúc đẩy năng lực sáng tạo, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo Việt Nam, đưa khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực của phát triển đất nước nhanh và bền vững, bảo đảm phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”; mở ra triển vọng phát triển mới, mở rộng không gian sinh tồn. Phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát triển con người toàn diện là hai trụ cột quan trọng, tạo động lực bứt phá cho phát triển đất nước.
Đổi mới sáng tạo phải đi sâu và lan tỏa trong mọi mặt của đời sống xã hội, trong phát triển kinh tế, trở thành hoạt động thường xuyên, chủ chốt, tạo ra giá trị mới, đem lại những thay đổi đột phá cho doanh nghiệp, cho cộng đồng xã hội và cho đất nước. Hình thành mạng lưới các trung tâm đổi mới sáng tạo từ Trung ương tới vùng, địa phương, dẫn dắt và lan tỏa văn hóa đổi mới sáng tạo đến mọi người dân Việt Nam theo chủ trương của Đảng, Nhà nước, góp phần quan trọng trong thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, đánh dấu sự khởi đầu của một làn sóng phát triển mới của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo Việt Nam.
Chuyển đổi số, đổi mới, sáng tạo sẽ là giai đoạn bản lề để Việt Nam vươn lên phát triển. Mỗi người dân cần đóng góp công sức, trí tuệ cho phát triển của đổi mới sáng tạo nước nhà, góp phần đưa đất nước phát triển nhanh hơn và ghi nên những dấu son về đổi mới sáng tạo trên trường quốc tế. Điều đó đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người dân phải thay đổi cách nghĩ, cách làm, phải đổi mới sáng tạo, phát huy sức mạnh nội lực và tận dụng tri thức quốc tế mới có thể nâng cao năng suất, sức cạnh tranh, vì hạnh phúc của người dân và nâng cao uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.
Với tầm nhìn chiến lược dẫn dắt đất nước bước vào kỷ nguyên mới, chúng ta có niềm tin vào sự vươn mình mạnh mẽ của Việt Nam, khi Đảng ta luôn lấy “dân là gốc”, “Nhân dân là chủ thể, trung tâm của công cuộc đổi mới”.
Như trong bài viết “Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", đồng chí Tô Lâm đã nhấn mạnh “mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của đổi mới, phát triển, được sống hạnh phúc trong môi trường an ninh, an toàn, không ai bị bỏ lại phía sau”.
Đối với Việt Nam, đây là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút để kiến tạo kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam; hiện thực hóa các mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045, và khát vọng xây dựng nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
(Vũ Trần Khánh Linh /Tạp chí Xây dựng Đảng)

BỘ CHỈ HUY QUÂN SỰ TỈNH GIA LAI ĐOẠT GIẢI THƯỞNG CUỘC THI CHÍNH LUẬN VỀ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG LẦN THỨ TƯ
20/10/2024

BỘ CHỈ HUY QUÂN SỰ TỈNH GIA LAI ĐOẠT GIẢI THƯỞNG CUỘC THI CHÍNH LUẬN VỀ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG LẦN THỨ TƯ

15/10/2024

Điểm tựa vững vàng cùng Nhân dân đi qua bão lũ!
---
Những tác động của cơn bão số 3 gây ra tại các tỉnh miền Bắc đã để lại những hậu quả vô cùng nặng nề, đau xót và khó từ ngữ nào có thể diễn hết sự khốc liệt và kinh hoàng của nó. Theo thống kê, bão và tàn dư mưa lũ sau bão đã làm 344 người chết và mất tích, hơn 1.900 người bị thương; thiệt hại tài sản hơn 81.000 tỉ đồng. Những nỗi đau quá lớn tại làng Nủ, Nậm Tông (Lào Cai), Ca Thành (Cao Bằng)… có lẽ sẽ phải mất nhiều, rất nhiều năm nữa mới nguôi ngoai và dần ổn định trở lại.

Trong những thời khắc khó khăn, nguy hiểm nhất của bão lũ, cùng với các lực lượng khác, lực lượng CAND đã phát huy truyền thống “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khó khăn, thử thách và nguy hiểm chực chờ. Để ứng phó và khắc phục hậu quả bão số 3, lực lượng Công an đã huy động hơn 100 nghìn CBCS, chuẩn bị hơn 27 nghìn phương tiện đường bộ, hơn 2,2 nghìn phương tiện đường thủy, gần 100 nghìn áo phao, phao tròn các loại và hàng nghìn thiết bị chuyên dụng phục vụ công tác cứu nạn, cứu hộ, nhất là các vùng bị chia cắt, cô lập.
Đã có những câu chuyện, hình ảnh vô cùng xúc động, để lại niềm tin, yêu trong lòng nhân dân. Chắc rằng trong mỗi chúng ta không thể quên hình đoàn cán bộ, chiến sỹ CSCĐ hành quân, vượt qua điểm nhiều điểm sạt lở, gùi nhu yếu phẩm lên điểm trường Cuông 3, xã Xuân Hoà, Bảo Yên, Lào Cai; hay chuyện Đại úy Lục Văn Nguyên, công an xã Yên Thuận, Hàm Yên, Tuyên Quang bất chấp dòng nước xiết cứu thành công cháu Nguyễn Quốc Bảo; là câu chuyện về Trung tá Hoàng Mạnh Lâm, Phó Trưởng Công an P. Nguyễn Phúc, TP.Yên Bái đã ngã quỵ vì mất mẹ và em trai trong cơn sạt lỡ kinh hoàng khi đang trực ứng phó lũ tại cơ quan; là sự áy này, lời xin lỗi vì chưa tìm được hết người dân bị mất tích tại Nậm Tâm (Lào Cai) đến từ Thượng tá Trần Văn Dân, Phó Trung đoàn trưởng CSCĐ thủ đô trong buổi chia tay đoàn công tác… Nhưng có lẽ nỗi đau lớn nhất, là việc Trung tá Trần Quốc Hoàng, cán bộ Trại giam Quảng Ninh, người chiến sỹ công an đã bất chấp hiểm nguy, hy sinh cao cả để đảm bảo an toàn cho đồng đội và phạm nhân khi cơn lũ dữ tràn về. Sự hy sinh của Trung tá Trần Quốc Hoàng là mất mát quá lớn, đã để lại niềm tiếc thương vô hạn, không có gì bù đắp được cho gia đình, đồng đội và Nhân dân.

Những câu chuyện về lòng quả cảm, sự sẻ chia và hy sinh của CBCS lực lượng CAND trong giúp dân đối mặt với thiên tai, địch họa và khắc phục hậu quả của mưa lũ đã để lại những ấn tượng tốt đẹp nhất trong lòng Nhân dân, tô thắm thêm truyền thống gần 80 năm CAND Việt Nam xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, vì an ninh Tổ quốc, vì hạnh phúc nhân dân,

CAND mãi mãi là điểm tựa vững vàng, sắc son của Nhân dân, như lời khẳng định của Thủ tướng Phạm Minh Chính trong chương trình “Điểm tựa Việt Nam”: “Điểm tựa thứ năm là quân đội, công an. “Lúc cần, lúc khó có quân đội, công an”; “Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”; “Công an ta, vì nước quên thân, vì dân phục vụ”.
K.T

Về việc quy tập HCLS tại mộ tập thể ở tổ dân phố 4, thị trấn Đak Pơ (Đak Pơ, Gia Lai): Hành động bằng mệnh lệnh trái tim...
14/10/2024

Về việc quy tập HCLS tại mộ tập thể ở tổ dân phố 4, thị trấn Đak Pơ (Đak Pơ, Gia Lai): Hành động bằng mệnh lệnh trái tim
Thận trọng, tỉ mỉ phân tách từng lớp đất, từng đoạn xương để xác định hài cốt liệt sĩ (HCLS) là công việc cán bộ, chiến sĩ Đội K52 (Bộ CHQS tỉnh Gia Lai) đang làm để quy tập HCLS tại mộ tập thể ở tổ dân phố 4, thị trấn Đak Pơ (Đak Pơ, Gia Lai).
Tất cả cán bộ, chiến sĩ đều quyết tâm cao, hành động bằng trách nhiệm và mệnh lệnh từ trái tim.
Đã hơn 10 ngày trôi qua nhưng Trung tá Nguyễn Xuân Nhật, Phó đội trưởng Đội K52, người phụ trách lực lượng quy tập vẫn luôn bám sát hiện trường chỉ huy, hướng dẫn, kiểm tra cán bộ, chiến sĩ mở rộng phạm vi tìm kiếm, quy tập. Anh Nhật và đồng đội chạy đua với thời gian, nỗ lực từng phút, từng giờ để tìm được nhiều nhất, nhanh nhất HCLS đang nằm dưới đất lạnh. “Đưa được một HCLS lên, thắp những nén hương khấn viếng, chúng tôi thấy ấm lòng lắm. Các anh biết không, khi tiếp cận hiện trường, bóc tách những lớp đất đầu tiên, thấy các HCLS nằm chồng lên nhau, không theo thứ tự như bị người ta vùi xuống mà đau thắt lòng”, Trung tá Nguyễn Xuân Nhật xúc động nói.
Binh nhất Nguyễn Hồng Nhật Cần, chiến sĩ Đội K52 cho hay, anh đã từng cùng với Đội K52 tìm kiếm, quy tập HCLS ở khu vực Đak Pơ nhưng lần này thực hiện nhiệm vụ quy tập một mộ tập thể thì cảm xúc hoàn toàn khác. Đồng chí Cần chia sẻ: “Trước đây, tôi biết đến cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc vĩ đại của cha ông ta qua bài giảng của thầy, cô giáo và đọc trên sách báo. Hôm nay, ngôi mộ tập thể này đã cho tôi một bằng chứng rõ ràng về sự khốc liệt và tội ác của kẻ thù. Tôi và cán bộ, chiến sĩ Đội K52 thương các bác, các chú vô cùng, không ai bảo ai, mọi người đều tự giác làm việc bằng hai, bằng ba để sớm tìm kiếm, quy tập. Để phân định được khoảng 32 HCLS, cán bộ, chiến sĩ Đội K52 đã sử dụng các dụng cụ chuyên dùng lấy từng viên đất, nhặt từng cọng cỏ, xác định đâu là xương đầu, xương tay, xương chân... rồi sắp xếp theo thứ tự".
Được biết, mộ tập thể này có chiều dài 4,5m; chiều rộng 2,5m; độ sâu hơn 1m nhưng đã bị máy xúc của người dân gạt mất phần trên. Hiện nay, Đội K52 đã mở rộng phạm vi tìm kiếm, đào tìm những nơi nghi ngờ có HCLS thêm hơn 90m2. Quá trình quy tập, Đội K52 tìm thấy nhiều hiện vật trong hài cốt là các vật dụng sinh hoạt hằng ngày đặc trưng của bộ đội ta như: Đế dép cao su, đế giày, bình tông, vòng tay, lược, bút bi, bút chì, ví, quẹt đá lửa, cúc áo quần... “Riêng cúc áo quần hoàn toàn trùng khớp với cúc áo quần được tìm thấy trong HCLS do Đội K52 quy tập trước đó ở Việt Nam và Campuchia”, Trung tá Nguyễn Xuân Nhật nhận định.
Trao đổi với Đại tá Lê Tuấn Hiền, Chính ủy Bộ CHQS tỉnh Gia Lai, Phó trưởng ban Thường trực Ban chỉ đạo 515 tỉnh Gia Lai chúng tôi được biết, những năm qua, công tác tìm kiếm, quy tập HCLS được Đảng ủy, Bộ CHQS tỉnh và Ban chỉ đạo 515 tỉnh Gia Lai đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Chỉ tính từ tháng 11-2023 đến nay đã chỉ đạo Đội K52 tiến hành khảo sát, tìm kiếm trên địa bàn 615 làng thuộc 139 xã, phường thuộc các tỉnh Ratanakiri, Stung Treng, Preah Vihear (Campuchia); đào gần 10.000m3 đất đá, quy tập được 21 HCLS, nâng tổng số HCLS được quy tập từ Campuchia về nước từ năm 2001 đến nay là 1.489 hài cốt, trong đó 43 liệt sĩ có thông tin.
Chỉ đạo Đội K52 phối hợp với các cơ quan chức năng, các địa phương của tỉnh Gia Lai thu thập thông tin, xác minh thông tin, tổ chức tìm kiếm, quy tập trên các địa bàn nghi có HCLS và đã quy tập được 10 HCLS từ đầu năm 2024 đến nay. Riêng địa bàn huyện Đak Pơ, Bộ CHQS tỉnh và Ban chỉ đạo 515 tỉnh Gia Lai đã chỉ đạo, tổ chức tìm kiếm nhiều lần.
Ngày 30-9, ngay sau khi tiếp nhận thông tin từ ông Đinh Văn Thanh, ở tổ dân phố 4, thị trấn Đak Pơ, huyện Đak Pơ trong quá trình san lấp mặt bằng để làm nhà phát hiện thấy nhiều đoạn xương, răng và một số vật dụng... nghi là của bộ đội. Bộ CHQS tỉnh Gia Lai đã báo cáo, tham mưu với Ban chỉ đạo 515 tỉnh Gia Lai và chỉ đạo Đội K52 cử ngay một tổ đi trước tiếp nhận hiện trường, đồng thời cơ động ngay lực lượng gần 40 cán bộ, chiến sĩ đến địa bàn thực hiện nhiệm vụ.
“Hiện nay, Ban chỉ đạo 515 tỉnh Gia Lai nhận định ban đầu đây là HCLS và tiến hành các biện pháp thu thập, củng cố thông tin, lấy mẫu giám định ADN để làm cơ sở kết luận. Bộ CHQS tỉnh và Ban chỉ đạo 515 tỉnh Gia Lai cũng chỉ đạo các cơ quan chức năng đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân, cựu chiến binh nắm được công tác tìm kiếm, quy tập HCLS và cung cấp thông tin cho lực lượng chức năng”, Đại tá Lê Tuấn Hiền nhấn mạnh.
Bài và ảnh: NGUYỄN ANH SƠN

NHÀ NƯỚC ĐÊ GA CHỈ LÀ SỰ HOANG ĐƯỜNGCó hay không Nhà nước Đê Ga độc lập cho người dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Nguyên ...
09/10/2024

NHÀ NƯỚC ĐÊ GA CHỈ LÀ SỰ HOANG ĐƯỜNG

Có hay không Nhà nước Đê Ga độc lập cho người dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Nguyên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam? Tuyên bố thành lập Nhà nước này do ai thực hiện và ý đồ của họ là gì? Câu trả lời xét từ cơ sở lý luận về chính trị, pháp lý và từ chính thực tiễn lịch sử của dân tộc Việt Nam đã khẳng định, tuyên bố Nhà nước Đê Ga cho người dân tộc thiểu số trên địa bàn Tây Nguyên chỉ là sự hoang đường.

Nhận diện âm mưu thành lập Nhà nước Đê Ga độc lập của lực lượng phản động Fulro
Sau khi vụ việc tấn công vào trụ sở Uỷ ban nhân dân hai xã Ea Tiêu, Ea Ktuh, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, đến nay, 100 nghi phạm đã bị lực lượng chức năng bắt giữ. Qua quy trình xét xử, ngày 20/01/2024, tại thành phố Buôn Ma Thuột, Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói trên đã tuyên án đối với 100 bị cáo về tội “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân”, “khủng bố”, “tổ chức cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh trái phép”, “che dấu tội phạm”.
Đến nay, tình hình địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng và khu vực Tây Nguyên nói chung đã yên bình trở lại. Tuy nhiên, dư luận vẫn đang băn khoăn trả lời câu hỏi: “Tại sao các đối tượng tham gia tấn công vào trụ sở Uỷ ban nhân dân hai xã Ea Tiêu, Ea Ktuh, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk lại manh động, liều lĩnh và hành xử vô nhân tính đến vậy?”. Thực tế đấu tranh với các đối tượng cầm đầu và các nghi phạm tham gia vụ tấn công nói trên cho thấy, hầu hết các nghi phạm tham gia do bị dụ dỗ, mua chuộc, kích động bằng lời hứa về viễn cảnh sung sướng nếu thực hiện theo sự chỉ đạo của những kẻ cầm đầu. Qua đấu tranh với những kẻ cầm đầu vụ tấn công nói trên, trên cơ sở kết quả của phiên toà xét xử ngày 20/01/2024 ở Đắk Lắk, họ đều thừa nhận hành vi phạm tội và chịu sự chỉ đạo của lực lượng phản động ở nước ngoài.
Bên cạnh đó, việc bị kích động ảo tưởng về Nhà nước Đê Ga độc lập của người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên cũng thúc đẩy họ đi vào sai lầm. Theo thông tin mà báo Thanh niên cung cấp thông qua phóng sự trực tiếp phỏng vấn Ama Thái - người từng là Thư ký trong Hội thánh Tin lành Đê Ga , thì ý tưởng thành lập Nhà nước Đê Ga độc lập bắt nguồn từ âm mưu đòi tự trị cho người thiểu số ở Tây Nguyên của tổ chức phản động FULRO ("Mặt trận thống nhất giải phóng các dân tộc bị áp bức") được thành lập ở Campuchia từ năm 1965. Tổ chức này có vũ trang, và đã gây ra nhiều vụ tấn công đẫm máu ở địa bàn Tây Nguyên sau khi chúng ta giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Đến thập niên 80 của thế kỉ XX, về cơ bản lực lượng FULRO bị đánh bại, phải dạt sang Campuchia. Tuy đã tuyên bố giải tán vào năm 1992, nhưng FULRO vẫn ngấm ngầm hoạt động và tài trợ cho các tổ chức phản động của người thiểu số ở Tây Nguyên dưới hình thức “Tin lành Đê Ga”. Cũng theo báo Thanh niên, “Cuối năm 1999, Ksor Kơk - đứng đầu Hội những người miền núi (MFI) thành lập năm 1992 tại hải ngoại - tuyên bố thành lập “Nhà nước Đê Ga”, tự xưng là “Tổng thống Nhà nước Đê Ga độc lập” và bắt đầu kế hoạch gây dựng lực lượng trong nước” .
Từ tuyên bố trên của Ksor Kơk, các lực lượng phản động do Fulro chỉ đạo đã ráo riết tuyên truyền về Nhà nước Đê Ga độc lập vào đồng bào người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, thông qua truyền bá “Tin Lành Đê Ga” . Nguồn tin trên báo Thanh niên cho biết: “Ngày 20/9/2000, mục sư Bdasu K'Bông ở nước ngoài đã ký quyết định thành lập tổ chức “Tin lành Đê Ga” trong nước, bổ nhiệm những người đứng đầu ở Gia Lai, trong đó Ama Chăm lãnh đạo Hội Thánh trong nước, Ama Thái giữ chức vụ thư ký...” .
Dưới vỏ bọc tổ chức truyền đạo “Tin Lành Đê Ga”, các lực lượng phản động thường tuyên truyền, lôi kéo, kích động những người dân nhẹ dạ, cả tin về ý tưởng Nhà nước Đê Ga độc lập cho người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Từ năm 2000 đến nay, hoạt động đòi quyền độc lập của Nhà nước Đê Ga luôn được “Tin Lành Đê Ga” thúc đẩy, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng sinh kế, đời sống của nhiều đồng bào người dân tộc thiểu số trên địa bàn Tây Nguyên, ảnh hưởng đến độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Khẳng định tuyên bố về Nhà nước Đê Ga độc lập là sự hoang đường
Trở lại với câu hỏi: Có hay không Nhà nước Đê Ga độc lập ở khu vực Tây Nguyên của nước Việt Nam? Câu trả lời hết sức rõ ràng là quan điểm về Nhà nước Đê Ga độc lập theo tuyên bố của Ksor Kơk và các lực lượng phản động núp dưới vỏ bọc “Tin lành Đê ga” không có cơ sở lý luận, cơ sở chính trị, pháp lý, cơ sở thực tiễn và đi ngược lại với ý chí, nguyện vọng của dân tộc Việt Nam.
Thứ nhất, Nhà nước Đê Ga độc lập cho người dân tộc thiểu số chẳng dựa trên luận thuyết khoa học nào.
Lý luận về nhà nước và pháp luật, nhất là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật đều nhất quán cho rằng, nhà nước là một tổ chức chính trị của xã hội, công cụ cơ bản của quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp; nhà nước ra đời trong quá trình phân công lao động xã hội và gắn với cương vực lãnh thổ quản lý. Do đó, tương ứng với các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, là các hình thức nhà nước khác nhau và nhà nước tồn tại, hoạt động trên cơ sở bộ máy nhà nước để thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại; nhiệm vụ của nhà nước là quản lý, điều hành toàn bộ mọi hoạt động trong đời sống xã hội bằng hệ thống pháp luật.
Đối chiếu với lý luận về nhà nước và pháp luật, chúng ta thấy rằng, việc tuyên bố thành lập Nhà nước Đê Ga độc lập năm 1999 của Ksor Kơk, cũng như tuyên truyền của tổ chức “Tin lành Đê Ga” không có sơ sở lý luận khoa học. Do vậy, quan điểm của Ksor Kơk và của tổ chức “Tin lành Đê Ga” về Nhà nước Đê ga độc lập cho người dân tộc thiểu số chỉ là lời tuyên bố suông, vì Nhà nước này không hề có bộ máy hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ được dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội, không có cương vực lãnh thổ để quản lý, nên rõ ràng đây chỉ là nhà nước dựa trên ý tưởng phi thực tế, không có tư cách pháp nhân thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại; chỉ nhằm phục vụ cho ý đồ cá nhân của Ksor Kơk và lực lượng phản động Fulro núp dưới vỏ bọc tổ chức “Tin lành Đê Ga” mà thôi, chứ không vì lợi ích cho đa số đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ hai, Nhà nước Đê Ga độc lập không có cơ sở chính trị, pháp lý.
Về mặt chính trị, ý tưởng về Nhà nước Đê Ga độc lập cho người dân tộc thiểu số chỉ là ý chí viển vông của một số phần tử được hậu thuẫn bởi Fulro, không được đa số nhân dân trên địa bàn Tây Nguyên đồng tình và ủng hộ. Bên cạnh đó, Nhà nước Đê Ga cũng không có tổ chức bộ máy đại diện cho quyền lực của giai cấp nắm quyền trong đời sống xã hội, không có đường hướng chính trị rõ ràng trong vận hành và dĩ nhiên không được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Thực tiễn cho thấy, quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm của chính trị, đây là quyền lực phải được đa số quần chúng thừa nhận. Điều này được Nguyễn Minh Đoan và các cộng sự khẳng định: “Quyền lực nhà nước là một loại quyền lực công trong xã hội, do nhà nước, các cơ quan nhà nước nắm giữ và thực hiện, gắn liền với chủ quyền quốc gia, có tác động đối với tất cả tổ chức và cư dân trong đất nước trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội trên cơ sở các quy định của pháp luật” .
Về mặt pháp lý, một nhà nước hoạt động trên thực tế phải có hệ thống pháp luật để quản lý, điều hành xã hội, trong đó Hiến pháp là đạo luật gốc, hiến định toàn bộ thể chế, thiết chế cơ bản của bộ máy nhà nước và các lĩnh vực của đời sống xã hội. Song, lời tuyên bố suông về Nhà nước Đê Ga độc lập cho người dân tộc thiểu số hoàn toàn không có cơ sở pháp lý để tồn tại, chứ chưa nói đến sự phát triển. Do đó, nhà nước theo tuyên bố của Ksor Kơk và tuyên truyền của tổ chức “Tin lành Đê Ga” chỉ là ý chí cá nhân thuộc về thiểu số, không hề có căn cứ pháp lý nào cho sự tồn tại trên thực tế.
Thứ ba, Nhà nước Đê Ga cho người dân tộc thiểu số không có cơ sở thực tiễn và hoàn toàn xa lạ với lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, trong tiến trình lịch sử của mình, dân tộc Việt Nam đã khẳng định một chân lý: nước Việt Nam là một quốc gia dân tộc thống nhất, có chủ quyền. Từ thời các vua Hùng dựng nước đến nay, cộng đồng các dân tộc trên nước Việt Nam luôn chung sống hoà bình, đoàn kết dân tộc để bảo vệ, phát triển đất nước trước thiên tai, địch hoạ. Dù trải qua 1.117 năm Bắc thuộc, phải chịu chính sách cai trị hà khắc của người phương Bắc, nhưng chưa bao giờ người Việt chịu khuất phục. Sau khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán năm 938, mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ của dân tộc, các triều đại phong kiến độc lập trong lịch sử dân tộc luôn coi trọng và thực hiện xây dựng một quốc gia thống nhất, có chủ quyền. Ý chí, nguyện vọng, quyết tâm xây dựng quốc gia dân tộc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đã được nêu rõ trong bài thơ thần của Lý Thường Kiệt – được xem là bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của dân tộc: “Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định rõ ở sách trời/ Cớ sao lũ giặc đến xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”. Đến tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi – được xem là bản Tuyên ngôn Độc lập thứ hai của dân tộc đã khẳng định về quyền độc lập, thống nhất của một quốc gia dân tộc có chủ quyền: “Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Núi sống bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác/ Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây dựng nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam năm 1858 và dần dần biến Việt Nam thành xứ thuộc địa của Pháp, song cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, các phong trào yêu nước diễn ra liên tục từ Bắc chí Nam để đấu tranh giành lại nền độc lập, thống nhất của đất nước. Mặc dù các phong trào yêu nước trong giai đoạn này thất bại do sự đàn áp của thực dân Pháp và do sự bế tắc về đường lối cứu nước, nhưng đã khẳng định ý chí được sống trong độc lập, thống nhất của dân tộc Việt Nam.
Mùa Xuân năm 1930, dưới sự chỉ đạo, tổ chức của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Sự kiện này đã mở ra chương mới trong lịch sử dân tộc, chính thức chấm dứt sự bế tắc, khủng hoảng về đường lối cứu nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã giành được thắng lợi sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Ngay sau đó, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời gắn với vai trò kiệt xuất của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á – một Nhà nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Trải qua quá trình cách mạng vô cùng gian khổ nhưng anh dũng, bất khuất, từ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đến Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, quốc gia dân tộc Việt Nam là thống nhất không phân chia, là Tổ quốc chung của 54 dân tộc anh em. Điều này, được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: “nước Việt Nam là một khối thống nhất về mặt dân tộc, lịch sử và kinh tế, và không một lực lượng nào trên thế giới có thể chia cắt nổi Việt Nam” và “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai chia cắt được” .
Thực tiễn còn cho thấy, xây dựng một quốc gia dân tộc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay. Quan điểm này của Đảng đã được thể chế hóa vào Hiến pháp, từ bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc năm 1946, đến bản lần thứ 5 là Hiến pháp năm 2013. Các bản hiến pháp của nước ta đều khẳng định, nước Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Điều thứ 2, Hiến pháp năm 1946 hiến định: “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia” ; Điều 1, Hiến pháp năm 1959 quy định: “Đất nước Việt Nam là một khối Bắc Nam thống nhất không thể chia cắt” ; Điều 1, Hiến pháp năm 1980 ghi rõ: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo” ; Điều 1, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời” ; Điều 1, Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời” .
Theo đó, việc xây dựng một quốc gia dân tộc Việt Nam độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là lý tưởng, ý chí, nguyện vọng xuyên suốt tiến trình lịch sử của dân tộc. Và trong suốt tiến trình đó, từ nhận thức cho đến hành động, mỗi người dân Việt Nam trên khắp dải đất hình chữ S đều hiểu rõ giá trị của một quốc gia độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, luôn nêu cao trách nhiệm, sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ quyền tự do, độc lập, thống nhất đó theo tinh thần “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, “quốc gia tinh lực, toàn dân hữu trách” và chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy, Nhà nước Đê Ga độc lập cho người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hoàn toàn xa lạ với lịch sử, truyền thống và ý chí, nguyện vọng của toàn thể Nhân dân Việt Nam.
Như vậy, tuyên bố thành lập Nhà nước Đê Ga độc lập cho người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên của Ksor Kơk và lực lượng phản động Fulro núp dưới tổ chức “Tin lành Đê Ga”, là hoàn toàn phi lý, ảo tưởng, không có cơ sở khoa học, cơ sở chính trị, pháp lý và hoàn toàn bị thực tiễn lịch sử phủ nhận. Đó chỉ là lời tuyên bố hoang đường của Ksor Kơk dưới sự hậu thuẫn của tổ chức phản động ở hải ngoại, đi ngược lại lợi ích quốc gia dân tộc Việt Nam, làm phương hại đến mối đoàn kết, thống nhất trong cộng đồng các dân tộc, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Do đó, chúng ta cần nhận diện đầy đủ, qua đó lên án, đấu tranh loại bỏ, nhằm mang lại cuộc sống trong yên bình, hạnh phúc cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, góp phần xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc./.
TS. Trịnh Quốc Việt

Address

Phạm Văn đồng
Pleiku

Telephone

+84326966824

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Đất và người Gia Lai posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Đất và người Gia Lai:

Videos

Share

Pleiku thành phố tôi yêu

Gia Lai là tỉnh nằm ở phía Bắc Tây nguyên, án ngữ trên cao nguyên Pleiku hùng vĩ, có trục giao thông quan trọng là quốc lộ 14, 19 nên cùng với Tây Nguyên, Gia Lai là nơi có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng cả về chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, quốc phòng, an ninh của Khu 5 và Tây Nguyên. Với điều kiện địa lý của vùng cao nguyên, đa dạng về địa hình, thiên nhiên đã ban tặng cho Gia Lai nhiều thắng cảnh đẹp như: thác Phú Cường, Biển Hồ, vườn quốc gia Kon Ka Kinh, khu bảo tồn thiên nhiên Kon Ja Răng...Cùng với sự hấp dẫn của thiên nhiên, Gia Lai còn có nền văn hóa lâu đời, đạm đà bản sắc của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, có bề dày lịch sử và truyền thống cách mạng hào hùng thể hiện ở các di tích lịch sử - văn hóa như: Quần thể di tích Tây Sơn Thượng đạo, làng kháng chiến Stơr của anh hùng Núp, nhà lao Pleiku, Di tích chiến thắng Plei Me, núi Hàm Rồng... Đặc biệt, Gia Lai còn lưu giữ những giá trị đặc sắc, độc đáo của nghệ thuật và di sản cồng chiêng Tây Nguyên – “Kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại” với văn hóa bản địa đặc sắc với “Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên” đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Trải qua lịch sử lâu dài chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, chiến đấu với nhiều kẻ thù xâm lược, ghi bao chiến công oanh liệt đã hun đúc cho nhân dân trong tỉnh truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam: lao động cần cù, sáng tạo trong dựng nước; yêu quê hương đất nước, anh dũng, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh giữ nước.

Từ những năm 30, 40 của thế kỷ trước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, nhân dân các dân tộc Gia Lai với lòng yêu nước nồng nàn đã vùng dậy chống đế quốc xâm lược, cùng toàn dân tộc Việt Nam chớp thời cơ ngàn năm có một làm cuộc Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, giành độc lập dân tộc, lập Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.