24/12/2023
𝑳𝑮𝑩𝑻 – 𝑯𝑨̃𝒀 𝑵𝑯𝑰̀𝑵 𝑵𝑯𝑨̣̂𝑵 𝑻𝑼̛̀ 𝑮𝑶́𝑪 Đ𝑶̣̂ 𝑻𝑰́𝑪𝑯 𝑪𝑼̛̣𝑪‼️
🛑Trong xã hội hiện nay vẫn tồn tại nhiều định kiến đối với người LGBT. Thực tế, nhiều người cho rằng LGBT là những người có vấn đề về bệnh tâm thần, người không tuân thủ đúng chuẩn mực xã hội. Điều này xuất phát từ nhận thức của những người trong xã hội không hiểu biết rõ về LGBT. Ỏ trường THPT Tô Hiệu có hay không hiện tượng đồng tính? Các bạn học sinh thuộc cộng đồng LGBT đang gặp những trở ngại nào về tâm lí? Nhận thức của học sinh đối với LGBT như thế nào? Bài viết này sẽ giúp các bạn học sinh, các bậc phụ huynh hiểu thêm về LGBT, đặc biệt là những hiểu biết về tâm lý của HS LGBT.
⭕️1. Đồng tính là gì?
Đồng tính luyến ái, còn gọi tắt là đồng tính, là khái niệm chỉ sự hấp dẫn tình dục, yêu đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với nhau trong một hoàn cảnh tạm thời hoặc lâu dài. Đây là "một mô hình thể hiện sự hấp dẫn về cảm xúc, tình yêu, và/hoặc tình dục" đối với những người có cùng giới tính.
⭕️2. Phân loại đồng tính
📍a. Thuật ngữ LGBT là gì?
LGBT gồm đồng tính, gay, song tính, chuyển giới - đây chính là thuật ngữ mô tả xu hướng tình dục của một người, cụ thể là khi họ có xu hướng tình dục với những người có cùng giới tính, yêu người cùng giới, ví dụ nam yêu nam, nữ yêu nữ, ngoài ra người song tính là sự mô tả một người là nam giới hoặc nữ giới đều bị thu hút tình yêu, tình dục bởi cả hai giới (tức là nam có thể yêu nữ, nam có thể yêu nam và ngược lại ở phái nữ cũng vậy).
LGBT là tên chính thức được xác nhận vào năm 1990 của cộng đồng những người có giới tính đặc biệt. Cộng đồng này bao gồm: đồng tính luyến ái nam, đồng tính luyến ái nữ, lưỡng tính, chuyển giới. Thuật ngữ mô tả xu hướng tình dục của một người, nghĩa là họ có sự hấp dẫn về tình yêu, tình dục với những người cùng giới tính.
🔻LGBT là viết tắt của 4 từ tiếng Anh:
👉🏻“Lesbian” (đồng tính nữ).
👉🏻“Gay” (đồng tính nam).
👉🏻“Bisexual” (lưỡng tính).
👉🏻“Transgender” (chuyển giới).
📍b. Định nghĩa về các nhóm LGBT
✔️Lesbian (đồng tính nữ): Đồng tính nữ vẫn hoàn toàn như phụ nữ bình thường về cơ quan sinh dục, biểu hiện tâm lý và sinh học. Tuy nhiên, họ thường bị thu hút về mặt tình yêu lẫn tình dục với những người nữ cùng giới với mình.
✔️Gay (đồng tính nam): Đồng tính nam cũng tương tự, họ chỉ có xu hướng tình dục và rung động về mặt tâm hồn giữa hai người nam với nhau. Tuy nhiên, hầu hết Gay cảm thấy bị thu hút bởi người đồng giới, họ không có suy nghĩ bản thân hoặc bạn tình là nữ. Chính vì vậy, đồng tính nam không có nhu cầu phẫu thuật chuyển giới.
✔️“Transgender” (chuyển giới): Đây là đối tượng LGBT có biểu hiện sinh học trên cơ thể thuộc giới này nhưng trong nhận thức lại thấy mình giống giới tính ngược lại. Vì cảm giác mang nhầm cơ thể nên họ luôn muốn phẫu thuật để chuyển sang giới tính mà mình muốn.
✔️Bisexual (lưỡng tính): Những người thuộc nhóm này sẽ có thể bị hấp dẫn về tình yêu và tình dục với cả nam và nữ. Vậy trong giới LGBT Bisexual sẽ yêu giới tính nào? Trên thực tế, họ sẽ yêu bất cứ giới tình nào đem đến cảm xúc yêu hơn, thường có tình cảm với người có giới tính bình thường.
⭕️3. LGBT – Hãy nhìn từ góc độ tích cực
📌Như mọi người đã biết, trường học an toàn, thân thiện và bình đẳng giới là xu hướng tất yếu của một nền giáo dục tiên tiến và hiện đại. Điều 15 trong Luật Giáo dục năm 2019 (Luật số 43/2019/QH14) quy định: “Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu và khả năng khác nhau của người học; bảo đảm quyền học tập bình đăng, chất lượng giáo dục, phù hợp với nhu cầu, đặc diêm và khả năng của người học; tôn trọng sự đa dạng, khác biệt của người học và khôngphân biệt đối xử”.
Mặc dù trong những năm gần đây, xã hội Việt Nam đã có cái nhìn thoáng hơn về cộng đồng người đồng tính và chuyển giới. Tuy nhiên xuất phát từ những quan điểm sai lầm cho rằng đồng tính luyến ái là bệnh tâm thần, là những biểu hiện lệch lạc về tâm lý, lối sống tha hóa mà xã hội đã dành cho người đồng tính và chuyển giới sự kỳ thị, biểu hiện ở những hành động như chế giễu, ghê sợ, phân biệt đối xử, thù hằn, bạo lực, xa lánh thậm chí cô lập, đặc biệt đối tượng đồng tính là học sinh cấp THCS và THPT.
Có thể nói, định kiến, kỳ thị và phân biệt đối xử của HS trong nhà trường đã ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý của HS thuộc cộng đồng LGBT. Trước áp lực của xã hội về kì vọng giới khiến nhiều HS đồng tính nghi ngờ về bản thân. Chính bản thân các em cũng cho mình là bất thường, bệnh lý và đi ngược với những chuẩn mực của xã hội. Nhiều HS đồng tính khi nhận ra xu hướng tình dục đồng giới của mình lại có xu hướng không chấp nhận bản thân, các bạn cảm thấy bối rối, lạc lõng và mặc cảm. Vì lo lắng, sợ hãi, bị áp lực trước sự xa lánh, kì thị của một số bạn học sinh trong lớp, trong trường mà nhiều HS LGBT không dám công khai giới tính thật của mình. Mặt khác, các bạn luôn cảm thấy bất an, sợ gia đình bị ảnh hưởng và tổn thương vì sự định kiến, kỳ thị của xã hội.
Một nguyên nhân nữa là những chuẩn mực giá trị truyền thống trong gia đình cũng khiến các bạn HS đồng tính bị phân biệt đối xử. Những chuẩn mực đó đòi hỏi nam giới phải mạnh mẽ, quyết đoán phải làm những công việc nặng, việc to lớn; nữ giới phải nhỏ nhẹ, tỏ ra yếu đuối, dễ thương, làm những công việc nhẹ nhàng. Sau này lớn lên, theo quy luật tự nhiên, con trai phải yêu và lấy con gái làm vợ và ngược lại. Những khuôn mẫu chuẩn mực đó đã được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vì vậy, người nào có những biểu hiện "lệch chuẩn" sẽ bị coi là sai lệch, khác người, "bệnh hoạn" và có thể làm mọi người phải sợ hãi và xa lánh. Sự kỳ thị và phân biệt đối xử từ gia đình và những người thân thường bộc lộ rõ ràng hơn cả. Cũng vì yêu thương nên những người trong gia đình thường dùng mọi cách để ngăn cấm khi biết con mình có quan hệ đồng giới: Từ khuyên bảo, ngọt ngào tình cảm đến những biện pháp mạnh mẽ như cấm ra ngoài, đánh đập, đưa con đến bệnh viện chữa bệnh, thậm chí sử dụng đông tây y kết hợp với cúng bái chỉ với mong muốn thay đổi giới tính cho con.
⭕️4. Kết luận
❤️🔥Có thể thấy, định kiến, kỳ thị và phân biệt đối xử đã ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý của HS đồng tính. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng cộng đồng người đồng tính phải chịu đựng bạo lực thể xác ở mức độ cao, quấy rối tình dục và xúc phạm bằng lời nói. Nhưng có lẽ, sự tổn thương lớn nhất đối với họ chính là sự chối bỏ của gia đình, việc học tập mất ổn định. Sự bi quan trong tình yêu đã khiến HS đồng tính trở nên chán nản, bi quan và trầm cảm. Nhiều HS đồng tính vì sự xa lánh và kỳ thị của gia đình, nhà trường và xã hội mà có những suy nghĩ và hành vi tiêu cực. Rất nhiều HS đồng tính đã trải qua giai đoạn khủng hoảng trước những quyết định quan trọng của cuộc đời mình đó là có "công khai" xu hướng tình dục đồng giới hoặc đi phẫu thuật hay không? Ngay cả những HS đã công khai cũng sẽ mất vài năm đầu hoang mang, khủng hoảng khi phải chịu sự định kiến, kỳ thị của xã hội.
Hiện nay, quan niệm về cộng đồng người đồng tính, song tính và chuyển giới rất đa dạng; và điều này phản ánh sự đa dạng về cách hiểu thế nào là người đồng tính, người chuyển giới của xã hội. Sự đa dạng này xuất phát từ cách nhìn nhận các khía cạnh khác nhau trong cuộc sống xã hội – từ góc độ con người sinh học, đặc điểm cấu tạo cơ thể, thay đổi nội tiết tố bên trong cơ thể, thể hiện giới bên ngoài, hay vai trò giới… Trước đây tình dục đồng tính bị xem là một căn bệnh- một rối loạn cần phải được chữa trị. Nhưng y học và tâm thần học đã công bố thì khác biệt hoàn toàn. Năm 1973, đồng tính được chính thức đưa ra khỏi sổ chẩn bệnh (DSM-3) của APA. Vì đồng tính luyến ái không phải là bệnh nên xã hội cần có ý thức tôn trọng sự đa dạng của các cá nhân trong xã hội, trên cơ sở đó tôn trọng quyền của người đồng tính , người chuyển giới như quyền của người dị tính. Tránh sự khắc họa chân dung người đồng tính và người chuyển giới dựa trên những định kiến về "khuôn mẫu giới". Điều này sẽ góp phần giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của định kiến, kỳ thị đối với cộng đồng người đồng tính và chuyển giới ở Việt Nam.