11/01/2025
👣 Y HỌC QUỐC GIA VÀ NHỮNG BƯỚC TIẾN LỚN CỦA NGÀNH PHÁP Y
Trong hai thế kỷ 18 và 19 hoạt động của pháp y và các cơ sở vệ sinh công cộng tạo cơ sở cho ngành y học quốc gia Đức, Áo ra đời. Người ta thành lập các trạm y tế hành chính công cộng, nhiệm vụ của nó là giám sát việc áp dụng những quy tắc vệ sinh công cộng và đưa khoa học vào phục vụ công lý, truy tìm tội phạm. Để đào tạo loại thầy thuốc này, một số trường đại học (Erlangen, Prague, Vienne) tổ chức những lớp Y học quốc gia.
“Y học quốc gia” cũng như những vấn đề y học trước đây không phải tiếp tục bằng con đường thí nghiệm thực tiễn mà bằng con đường lý thuyết và những giả thiết, chưa có chứng cứ. Cũng như phép đo nhận dạng và lấy vân tay mười năm trước đó, sự phát triển thực sự của pháp y đã liên kết một cách chặt chẽ với sự tiến bộ của các khoa học tự nhiên làm đảo lộn và loại bỏ những ý nghĩa và suy luận trừu tượng để giúp cho con người phân tích cụ thể hiện tượng giữa cái sống và cái chết.
Về vấn đề này, Johann Ludwig Casper đã ghi lại đầy đủ. Ông là bác sĩ pháp y ở Berlin, giáo sư khoa “Y học quốc gia”, người tiên phong dũng cảm và nhiệt tình của khoa học này, viết năm 1864. Trong lời mở đầu cho tác phẩm “Sách giáo khoa pháp y” một quyển sách cách mạng được xuất bản năm 1857, ông ghi “Tôi nhận thấy, pháp y, nhất là ở Đức được nhiều người hành nghề. Tuy họ có những hiểu biết khoa học nhưng điều đó cũng không thể thay thế cho kinh nghiệm cá nhân khi tập hợp các số liệu. Tôi dẫn ra đây một người tên là Henke (chỉ Adolf Henke, giáo sư “Y học quốc gia” ở Erlanger, mất năm 1843) cũng như một số người khác đã bảo vệ pháp y với tất cả nhiệt huyết của mình. Nhưng theo tôi biết, ông cũng chưa bao giờ thực hành một cuộc phẫu thuật tử thi, bước qua cửa nhà tù, kiểm tra tính tình tội phạm hay những triệu chứng của một căn bệnh giả vờ”.
Thế kỷ của Darwin, của Galton và của Quételet làm cho pháp y tiến được những bước lớn bằng cách đưa nó vào trong “thời đại mới, thời đại của khoa học tự nhiên”. Mặc dù đường đi của phẫu thuật học và của sự phân tích tử thi kéo dài đến 300 năm, kéo dài đến khi các nhà bác học khám phá ra những sự tinh vi đến kinh ngạc của cơ thể.
Đầu thế kỷ 18, một người Ý tên là Morgani bắt đầu phân tích các tử thi và toan tính thiết lập mối liên kết giữa những sự biến dạng của một vài cơ quan và những triệu chứng của căn bệnh đã từng là nguyên nhân của cái chết. Như vậy, ông thành lập những cơ sở của bệnh lý học. Nhưng mãi tới thế kỷ 19, Leeuwenhock, người Hà Lan đã sử dụng một phát minh mới, đó là kính hiển vi để kiểm tra mô cấu tạo nên bắp tay người, mà không một nhà giải phẫu nào có thể phân biệt được bằng mắt thường. Thế kỷ 19 thực sự là thế kỷ của kính hiển vi, là thế kỷ của giải phẫu học hiển vi, của việc khám phá ra tế bào, đơn vị nhỏ nhất của cơ thể con người và những cấu trúc hữu cơ, của bệnh lý học hiển vi, của mô học hiển vi, có khả năng phát hiện ra những phần tử tinh vi nhất của các mô con người. Chính khi đó người ta mới biết cắt nhỏ các mô thành những phần rất nhỏ mỏng hơn tờ giấy, không thể quan sát được mà phải nghiên cứu dưới kính hiển vi và có thể nhìn thấy được bằng cách nhuộm màu chúng.
Giữa thế kỷ 19, những nhà bác học ở Pháp, Đức cố gắng thành lập nền “pháp y thực sự” dựa trên sự hiểu biết về phương hướng này, những nhà bác học thuộc loại này còn ít ỏi, có thể tính được trên đầu ngón tay. Kromholz và P***l ở Praha, Fietz và Bernt ở Vienne và cuối cùng là 3 vĩ nhân, Johann Ludwig Casper, sinh ở Berlin năm 1796, Mathieu-Joseph-Bonaventura Orfila sinh tại Minorque năm 1787, nhà khoa học này cũng nổi tiếng trong lĩnh vực chất độc học và Marie- Guillaume-Alphonse Devergie sinh năm 1789 tại Paris. Cuộc sống và điều kiện làm việc của họ khác nhau nhưng họ có quan điểm chung: coi phần lớn các thầy thuốc như những khách không mời mà đến. Những kẻ trục lợi, những nhà vô địch có vốn trí thức như con dao hai lưỡi luôn luôn dùng để khai thác tội ác và sự nghèo khó. Những nhà bệnh lý học tiến bộ trong thời kỳ này không bao giờ có đủ số lượng tử thi để phân tích. Họ không những được quyền tiến hành phẫu thuật các tử thi chết trong các bệnh viện mà còn yêu cầu cung cấp cho họ những nạn nhân của tội ác, chết trôi, chết bất đắc kỳ tử, đột tử hoặc không thể giải thích. Từ năm 1832 đến 1875 Rakitansky, ông vua của các nhà bệnh lý học Áo có chủ quyền tất cả các tử thi mà Viện có thể giao cho ông Bernt, giáo sư y học quốc gia và người kế tục của ông. Dlaudy chỉ là những người quan sát trong suốt các cuộc phẫu thuật do các nhà bệnh lý thực hiện.Năm 1830 người ta tìm cách tách Dlaudy và các đồ đệ của ông ra khỏi các phòng phẫu tích, viện cớ rằng “người bị nghi là tội phạm có thể ở trong đám sinh viên”.
Casper làm việc trong những điều kiện khiến thế hệ thầy thuốc tương lại phải kinh sợ. Ban đầu ông có một căn phòng hội thảo ở học viện giải phẫu Berlin, cổ lỗ đến hàng trăm năm, tiếp theo đến cái tầng hầm của nhà thương. Và cuối cùng sau hai năm làm việc với nhà bệnh lý học lừng danh Rudolf Virchow, ông buộc phải chuyển đến một căn hầm khác hôi hám hơn ở Luisenstrasse, Tuy nhiên, việc xuất bản tác phẩm pháp y lý thuyết và thực hành của Devergie năm 1835, những quyển sách của Casper phân tích tử thi năm 1850 và sách giáo khoa thực hành pháp y đã mở ra trước mắt công chúng một thế giới mới, Thế giới này kinh tởm nhưng do những nhu cầu của khoa học tội phạm và của pháp chế đòi hỏi họ phải xem xét những tác phẩm này. Các chủ đề được Casper và Devergie trình bày không khác các chủ đề của các tác phẩm của những vị tiền bối.
Những tư tưởng chủ yếu của pháp y vẫn giữ nguyên trong thế kỷ cực kỳ sôi động và những tư tưởng này chỉ mới là bắt đầu. Cũng như trước đây, họ toan tính xác lập những triệu chứng khác nhau của các kiểu chết bất đắc kỳ tử hoặc tự nhiên và thiết lập được tính chất bệnh hoạn hay không bệnh hoạn của các tội phạm. Song, phương pháp mà những nhà bác học như Casper và Devergie kiểm tra các trường hợp trên thì không có gì là cách mạng cả. Bởi chính ở đó là mảnh đất mà những hạt giống đã nảy mầm thì ắt phải có những kết quả tương lai. Đối với những người này, mọi lời phán quyết chỉ có thể dựa trên cơ sở vững chắc, duy nhất, phẫu thuật, phân tích hoá học bằng kính hiển vi, quan sát tỉ mỉ. Những quyển sách và bài giảng của họ đã được rút ra từ hàng trăm hàng nghìn trường hợp hoặc được kiểm tra lại chặt chẽ và các nhận xét chi tiết duy nhất của nó có thể cho phép chiếm một địa vị hay thiết lập được một quy tắc.
Khi Goron, Lacassagne, Jaume cúi xuống chiếc quan tài bình thường ghi số 126 chứa thi hài người Millery tại nghĩa địa Lyon, thì Casper từ 25 năm nay đã không còn trên cõi đời này nữa. Orfila đã chết cách đó 36 năm, Bernt 47 năm, Devergie 10 năm. Pháp y, người bà con đáng thương của y học luôn luôn chờ đợi sự thừa nhận mình và định giới hạn về chủ quyền của nó đối với bệnh lý học. Y học quốc gia hầu như đã hoàn toàn thuộc vào quá khứ và một lĩnh vực hoạt động mới - vệ sinh học - mà từ thời Bernt và Casper là một thành viên của pháp y và thuộc lĩnh vực y học. Công việc của Casper và Orfila, Bernt và thừa kế của các nhà bác học này tiếp tục phải làm việc trên mảnh đất mà những người thầy của họ đã chuẩn bị để tiếp tục bảo vệ kho tàng kinh nghiệm mà giá trị của nó từ lâu không thể đánh giá hết được bởi những điều xa lạ.
**cMinhBooks