
03/02/2025
95 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM: MỖI BƯỚC PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC ĐỀU IN ĐẬM SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
---***---
Trong suốt 95 năm qua kể từ ngày Đảng ta ra đời (3/2/1930), Đảng đã kiên cường đồng hành cùng dân tộc, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi vẻ vang. Từ nô lệ lầm than, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn thể Nhân dân đã anh dũng chiến đấu giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Từ nghèo đói, lạc hậu, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam trở thành quốc gia thuộc nhóm tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực và trên thế giới, đời sống của Nhân dân không ngừng được cải thiện, vị thế quốc gia trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Qua đó khẳng định vai trò lãnh đạo to lớn của Đảng trong mỗi bước phát triển của dân tộc.
* Nền kinh tế có bước tiến vượt bậc
Sau khi lãnh đạo toàn dân tộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục lãnh đạo Nhân dân xây dựng và phát triển đất nước. Trải qua 5 thập kỷ kể từ ngày thống nhất đất nước, đặc biệt sau gần 40 năm thực hiện đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện.
Nền kinh tế Việt Nam đã có bước tiến vượt bậc, đưa đất nước từ một quốc gia nghèo, lạc hậu, trở thành nền kinh tế đang phát triển năng động, có tầm ảnh hưởng trong khu vực và thế giới. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1990-2000 đạt 7,5%; giai đoạn 2006-2010 đạt 7%; giai đoạn 2011-2015 đạt 5,9%/năm; giai đoạn 2016-2019 đạt 6,8%/năm, đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng cao nhất của khu vực.
Trong hai năm 2020 và 2021, đại dịch COVID-19 đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Song Việt Nam vẫn nằm trong số ít quốc gia đạt mức tăng trưởng dương, lần lượt là 2,9% vào năm 2020 và 2,58% vào năm 2021 - một thành tựu ấn tượng trong bối cảnh toàn cầu lao đao vì đại dịch.
Bước sang năm 2022, với nhiều giải pháp quyết liệt, GDP của Việt Nam tăng mạnh tới 8,02%, đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2011-2022. Năm 2023, dù đối mặt với nhiều thách thức chung trên thế giới, nền kinh tế vẫn duy trì đà tăng trưởng trên 5%, với quy mô ước tính khoảng 430 tỷ USD.
Đặc biệt, năm 2024, trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động, trong nước lại chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi cơn bão số 3-Yagi (ước tính tổng thiệt hại về kinh tế là trên 83.746 tỷ đồng), Việt Nam vẫn ghi dấu ấn mạnh mẽ với tăng trưởng GDP ấn tượng 7,09%, vượt các dự báo và trở thành điểm sáng về tăng trưởng trong khu vực. Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2024 đạt trên 476 tỷ USD.
Xuất khẩu hàng hóa là một điểm sáng ấn tượng của Việt Nam trong nhiều năm qua. Kim ngạch xuất khẩu năm 2024 đạt 403 tỷ USD, tăng 13,6% so với năm 2023. Đặc biệt, cán cân thương mại tiếp tục ghi nhận xuất siêu năm thứ 9 liên tiếp với mức thặng dư đạt 25 tỷ USD.
Với ngành du lịch, nhiều năm qua, Việt Nam luôn là một điểm đến thu hút đông khách du lịch trong nước và quốc tế. Năm 2024, Việt Nam đón 17,6 triệu lượt khách quốc tế, 110 triệu lượt khách nội địa, tổng thu từ du lịch đạt khoảng 840.000 tỷ đồng, tăng 23,8% so với năm 2023. Trên bình diện quốc tế, Việt Nam đã 5 lần được vinh danh là Điểm đến Di sản hàng đầu Thế giới tại Lễ trao Giải thưởng Du lịch Thế giới (World Travel Awards-WTA) năm 2019, 2020, 2022, 2023, 2024. Năm 2024, Việt Nam còn được vinh danh là điểm đến hàng đầu châu Á, Điểm đến thiên nhiên hàng đầu châu Á.
Với sự ổn định về chính trị, sự tăng trưởng về kinh tế, sự nỗ lực trong cải thiện môi trường đầu tư-kinh doanh, Việt Nam ngày càng trở thành điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Năm 2024, tổng vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 38,23 tỷ USD. Đặc biệt, vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài đạt 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm 2023.
Năm 2025 được coi là thời điểm "tăng tốc và bứt phá" để đạt mục tiêu cả nhiệm kỳ 2020-2025, do đó, Chính phủ đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 8%. Mới đây, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) cũng đã nâng dự báo tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2025 lên 6,6%, từ mức 6,2% dự báo vào tháng 9/2024. Điều này cho thấy triển vọng tích cực của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
* Chất lượng sống của người dân không ngừng được nâng cao
Song hành cùng phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước luôn đặt trọng tâm vào việc phát triển văn hóa-xã hội, nhằm nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Với những nỗ lực bền bỉ, Việt Nam đã thoát khỏi nhóm nước thu nhập thấp từ năm 2008. GDP bình quân đầu người năm 2024 đạt khoảng 114 triệu đồng, tương đương 4.700 USD, phản ánh sự cải thiện đáng kể trong mức sống của Nhân dân.
Hệ thống giáo dục ngày càng được hoàn thiện, theo hướng mở, liên thông giữa các cấp học và phương thức đào tạo, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân. Học sinh Việt Nam đạt được nhiều thành tích cao trong các kỳ thi quốc tế. Các chương trình hỗ trợ giáo dục cho con em hộ nghèo, dân tộc thiểu số và vùng khó khăn đã mang lại hiệu quả rõ rệt, mạng lưới các trường chuyên biệt tại khu vực miền núi tiếp tục được mở rộng. Những nỗ lực này không chỉ thu hẹp khoảng cách giáo dục mà còn mở ra cơ hội học tập công bằng hơn cho mọi tầng lớp trong xã hội.
Mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở ngày càng được củng cố và phát triển, đáp ứng tốt nhu cầu chăm sóc sức khỏa của Nhân dân. Các chỉ số sức khỏe, tuổi thọ bình quân được cải thiện, tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2023. Nhiều dịch bệnh nguy hiểm được khống chế và đẩy lùi, như: SARS, cúm A/H5N1, cúm A/H1N1 và gần đây là đại dịch COVID-19. Nhiều công nghệ y học mới được nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả. Đặc biệt, thành tựu trong lĩnh vực ghép tạng với những ca ghép tim, gan, thận phổi hay ghép đa tạng đã đưa ngành y tế Việt Nam vươn tầm thế giới.
Là thành viên sáng lập của Liên minh Toàn cầu chống đói nghèo, Việt Nam luôn đi đầu trong nỗ lực giảm nghèo và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Trong những năm qua, nhiều chính sách mang tính đột phá đã được triển khai nhằm hướng tới giảm nghèo đa chiều, toàn diện. Những chính sách này không chỉ giúp các hộ nghèo đảm bảo nhu cầu cơ bản như cơm ăn, áo mặc mà còn tạo điều kiện để người dân tiếp cận bình đẳng và đầy đủ các dịch vụ xã hội thiết yếu như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, vệ sinh và thông tin. Giai đoạn 2021-2024, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều đã giảm khoảng 4,2% (trung bình 1,05% mỗi năm). Đặc biệt, các huyện nghèo giảm trên 4% mỗi năm và tỷ lệ hộ nghèo trong cộng đồng dân tộc thiểu số giảm trên 3% mỗi năm, thể hiện sự nỗ lực vượt bậc trong công cuộc xóa đói giảm nghèo toàn diện và bền vững.
Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo cho đời sống người lao động, nhất là các nhóm yếu thế như phụ nữ, trẻ em, người già, người khuyết tật, các đối tượng chính sách (thương binh, người có công với cách mạng)… tiếp tục được đẩy mạnh. Công tác bình đẳng giới ngày càng thực chất hơn, vai trò và địa vị của phụ nữ được nâng lên. Theo Báo cáo khoảng cách giới toàn cầu 2023, Việt Nam xếp hạng 72 với mức bình đẳng giới đạt 71,1%, tăng 11 bậc so với năm 2022. Còn theo Báo cáo Hạnh phúc Thế giới năm 2024, Việt Nam đứng thứ 54 trong tổng số 143 quốc gia/vùng lãnh thổ được khảo sát, tăng 11 bậc so với xếp hạng năm 2023.
Báo cáo Phát triển con người (HDR) 2023/2024 (công bố tháng 3/2024) cũng cho thấy, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2022 là 0,726, đứng thứ 107/193 quốc gia và vùng lãnh thổ; tăng so 0,703 điểm vào năm 2021. Từ năm 1990 đến năm 2022, HDI của Việt Nam tăng gần 50%. Việt Nam đang ở giữa bảng xếp hạng và liên tục tiến bộ trong 30 năm qua. Thành tựu này thể hiện rõ sự nỗ lực không ngừng Việt Nam trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống và phát triển con người toàn diện.
* Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng, vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao
Từ một nước bị bao vây, cấm vận kéo dài trong 30 năm, đến nay Việt Nam đã vươn mình mạnh mẽ, trở thành một quốc gia có vị thế và uy tín ngày càng cao trên trường quốc tế. Quan hệ đối ngoại của Việt Nam không ngừng mở rộng và đi vào chiều sâu, đặc biệt với các đối tác quan trọng và các nước láng giềng.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 nước; xây dựng các mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới; đặc biệt có quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện với 9 quốc gia, gồm: Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Australia, Pháp và Malaysia. Quốc hội Việt Nam duy trì mối quan hệ sâu rộng với hơn 140 quốc gia; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các tổ chức nhân dân cũng triển khai đối ngoại thiết thực với 1.200 tổ chức nhân dân và đối tác các nước.
Bên cạnh đó, Việt Nam hiện có quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, đồng thời ký kết hơn 100 hiệp định thương mại song phương, nổi bật là các hiệp định thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP... Những nỗ lực trong ngoại giao kinh tế đã góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, đẩy mạnh xuất nhập khẩu và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Trên bình diện đa phương, Việt Nam đã từng bước hội nhập sâu rộng vào các tổ chức và diễn đàn quốc tế, tạo dựng hình ảnh của một quốc gia chủ động, tích cực và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Hiện Việt Nam là thành viên của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC và WTO… Việc tham gia vào các tổ chức này không chỉ giúp Việt Nam tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế mà còn tạo điều kiện để Việt Nam đóng góp vào việc định hình các chính sách toàn cầu, đặc biệt là trong các lĩnh vực như hòa bình, an ninh, phát triển bền vững, và biến đổi khí hậu.
Những thành công trong việc tổ chức các hội nghị quốc tế lớn như APEC, ASEM và hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế quan trọng như: Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch luân phiên ASEAN, chủ nhà Hội nghị cấp cao ASEM, Hội nghị thượng đỉnh APEC, Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN… đã khẳng định trách nhiệm, uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đặc biệt, hình ảnh đất nước Việt Nam yêu chuộng hòa bình, nhân văn được lan tỏa mạnh mẽ qua hoạt động hơn 1.100 quân nhân tham gia sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Những đóng góp này không chỉ khẳng định sức mạnh đoàn kết và trí tuệ của dân tộc Việt Nam mà còn thể hiện tinh thần trách nhiệm sẵn sàng chung tay giải quyết các vấn đề mà toàn cầu đang phải đối mặt.
Nhìn lại chặng đường 95 năm qua, có thể thấy rằng, mỗi chặng đường phát triển của dân tộc đều in đậm dấu ấn của sự lãnh đạo kiên định, sáng suốt của Đảng. Từ bản lĩnh vững vàng và tinh thần đại đoàn kết dân tộc, Đảng đã dẫn dắt Nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, xây dựng một Việt Nam độc lập, thịnh vượng và không ngừng khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Những thành tựu đạt được hôm nay không chỉ là niềm tự hào mà còn là động lực để đất nước tiếp tục tiến lên, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.